Nguyễn Thanh Ty
Quả
Lựu Đạn Lép
Gần “ngă ba trụ cờ” có
một cái cḥi nhỏ bé tí, lụp xụp, diện tích
chừng cỡ 6 mét vuông, mái lợp bằng vỏ
đạn đại bác được cắt đôi,
đập phẵng ra. Vách phên che chắn
bằng nhiều mảnh cạc tông của những thùng
đựng thực phẩm quân đội Mỹ.
Nói “ngă ba trụ
cờ” th́ e rằng chưa đúng và rơ hẵn cái
địa thế này. Phải nói là ngă ba có “ba trụ
cờ” th́ mới thực sực đầy đủ
chữ và ư nghĩa.
Chả là,
trước năm 1975, nơi đây là bản doanh của
Trung tâm Hành quân Hỗn hợp Việt-Mỹ-Đại Hàn
tọa lạc.
Bản doanh này nằm sau lưng, gần bên cạnh Trung Tâm
Huấn Luyện Hải quân Nha Trang, ngay ngă ba cuối
đường Yết Kiêu, trường Ḍng Thánh Giu Se và
làng B́nh Tân.
Con đường Yết Kiêu
chỉ là một đoạn đường ngắn,
chừng nửa cây số, bắt đầu từ bờ
biển, đường Duy Tân, cuối sân bay Nha Trang,
đầu Trung tâm Huấn luyện Hải quân, kéo dài
đến ngă ba trụ cờ là hết. Hai bên
đường là khu gia binh Hoàng Diệu của Bộ Chỉ
huy 5 Tiếp vận, phía tay phải và khu
gia binh Hải quân phía tay trái. Nằm sát ṿng rào pḥng thủ
của Hải Quân, lọt thỏm giữa khu gia binh có ngôi
trường Tiểu học Yết Kiêu. Trường này do
Trung Tâm Hải Quân xây tặng cho Ty Tiểu học Khánh Ḥa.
Trường chuyên nhận các con em của lính. Ưu tiên cho
con em Hải quân. Sau đó là con em của các quân binh
chủng khác th́nh ĺnh thuyên chuyển tới địa bàn
quân sự này.
Phía trên hai trại gia binh về
hướng “ngă ba trụ cờ” c̣n có mươi căn nhà
của cư dân ở.
Trung tâm Hành quân
Hỗn hợp Việt-Mỹ-Hàn là một hầm ngầm
sâu dưới đất, xây dựng bằng toàn bao cát.
Giữa sân, ba cột cờ
bằng sắt, đứng song hàng, cao bằng nhau,
sừng sững vươn trên nền trời trong xanh
với ba lá cờ Việt-Mỹ-Hàn khổ lớn bằng
chiếc chiếu đôi, luôn lồng lộng bay trong gió. Gió từ ngoài biển thổi vào rạt rào
suốt ngày đêm.
Những năm trước ngày
30 tháng 4 năm 1975, nơi này cũng là chỗ đắc
địa của các “chị em ta”, môi son, má phấn loè
loẹt, của cánh xe ôm, xe lam, cả thành phần du
thủ, du thực, mánh mung với lính Mỹ, luôn tụ
tập đông đảo, rộn rịp đợi
chờ ngoài ṿng rào như ngày hội mỗi sáng thứ
bảy, chủ nhật để sẵn sàng giang tay,
mở rộng “t́nh hữu nghị Việt-Mỹ” đón
rước, phục vụ “tới bến” các chiến
hữu đồng minh mắt xanh mũi lơ cần xă
hơi, giải trí cuối tuần.
Khoảng thời
gian 1974, Mỹ thực sự rút quân về nước, Trung
tâm Hành quân Hỗn hợp dời đi nơi khác,
địa điểm này bị bỏ hoang. Sau ngày 30/4 bất ngờ nó
lại biến thành kho tàng khổng lồ cho đám
người săn nhặt ve chai đi thu
gom phế liệu. Ban đầu là những tấm vỉ
nhôm rất đắt giá. Người ta xẻ nó ra
từng thanh nhỏ, chế biến thành niền xe đạp nhôm. Tiếp theo
là cọc sắt kẽm gai, rồi bao cát Đại Hàn. Cuối cùng là các ống sắt đựng
đạn đại bác chôn dưới giao thông hào.
Đạo quân ve chai kéo đàn, kéo lũ
vào, dùng búa, dùng đục “xi rô” chặt bỏ đít,
xẻ ống ra làm hai rồi gơ cho phẵng ra. Con buôn
từ Chợ Lớn đem xe “tải”
ra mua, chở đi hết.
Mái cḥi này cũng
được lợp bằng những tấm “tole” sáng
chế ấy.
Chỉ trong có mấy tháng, cái
Trung tâm Hành quân Việt-Mỹ-Hàn đầy uy nghi, bề
thế kia đă bị phanh thây, xẻ thịt trở thành
b́nh địa, hoang tàn. Luôn cả ba trụ
cờ cũng bị gỡ đi mất.
Cái cḥi
nằm thoi loi, hoang vắng một ḿnh ở ngă ba trụ
cờ năm xưa, cách hai khu gia binh một quăng khá xa.
Hai khu gia binh bây giờ đă bị bộ
đội Việt cộng chiếm dụng làm nhà ở cho
gia đ́nh chúng ngoài Bắc kéo vào. Cả
ngôi trường Tiểu học Yết Kiêu cũng bị
chiếm đoạt làm nhà ở cho bọn sĩ quan
Hải quân Việt cộng.
Sống cu ky
trong cḥi là một đội vợ chồng c̣n khá trẻ.
Không con cái ǵ cả. Anh chồng tên Thanh,
độ chừng hơn bốn mươi bảy.
Chị vợ tên Tám, chừng ba mươi lăm. Cả hai đều là người Bắc di
cư. Tuy c̣n trẻ nhưng sự đói khổ,
thiếu ăn lâu ngày đă làm cho họ
hốc hác, già sọm đi trước tuổi.
Nh́n vào bên trong cḥi, phía vách
phải, một tấm ván ép được kê cao trên
bốn thùng gỗ đựng đạn đại bác, bên
trên trăi chiếc chiếu nylon màu xanh viền đỏ,
cũ mèm, bạc màu, làm giường
nằm. Phía vách trái là bếp nấu
làm bằng ba viên “táp lô” chụm đầu nhau thành ông ḷ.
Bên cạnh bếp, một cái lu
nước bằng đất nung, dùng nấu ăn. Giữa cḥi, một cái bàn và ba chiếc ghế
thấp lè tè bằng thùng gỗ thông, thứ thùng
đựng đạn pháo binh, lâu ngày cũng đă ọp
ẹp. Ngoài các thứ ấy ra, cḥi
trống trơ, trống hoác, không c̣n có thứ ǵ khác
để gọi là tài sản.
Họ sống lây lất như
vậy mấy năm nay, sau ngày Nha Trang được “cách
mạng giải phóng”, bằng đủ thứ nghề lao động tay chân và cuối cùng là
nghể sửa, vá xe đạp.
Đám giáo chức “sĩ quan
biệt phái” chúng tôi ở Nha Trang bị bắt đi
“học tập cải tạo” từ tháng 6 năm 1976.
Sở dĩ bị bắt trễ như vậy v́ bọn
chúng “lưu dung” chúng tôi để tiếp tục “công tác”
dạy học. Chúng bảo, “giáo dục là
kế trồng người trăm năm” của Bác
Hồ đề ra, giáo viên là thành phần ṇng cốt
của đảng. Không ngờ chỉ sau một niên
khóa, đám cán bộ ngoài Bắc vừa được
đào tạo cấp tốc được đưa vào
thay thế, học tṛ vừa nghĩ hè th́ chúng tôi bị
bắt ngay. Lệnh bắt ghi là “tập trung cải
tạo 2 năm” nhưng chúng tôi phải lao
động khổ sai trăi qua hai trại tù Đá Bàn và A.30
đến hơn ba năm mới được thả
về. Tuy vậy, vẫn c̣n có vài anh em hơn
năm năm mới được thả v́ trong thời
gian ở tù đă “ngoan cố, bướng bỉnh” không
chịu “học tập tốt”.
Thời gian về
bị quản chế, chúng tôi rất khó đi t́m việc
làm. May mắn, dưới B́nh Tân có một
xưởng xẻ gỗ rất lớn, có tên là Công ty
gỗ Điện Biên. Hầu hết anh em ở tù
về đều được xưởng này thu nạp vào làm. Số công nhân lên cả
trăm người. Cấp bậc cao
nhất là Trung Tá. C̣n phần đông là
từ Đại úy, Trung Úy. Chỉ có
ḿnh tôi và anh Lê M. là giáo chức biệt phái.
Công việc hàng
ngày rất nặng nhọc là chuyển những cây súc
gỗ lớn vào dàn cưa ṿng với những lưỡi
cưa to và dài để xẻ ra từng tấm mỏng. Rồi chuyển
qua những máy cưa mâm. Từ gỗ
tấm xẻ ra thành từng thanh, từng thẻ nhỏ
để xuất khẩu. Việc
rất nặng nhọc và cực khổ rất hao tổn
sức lực vậy mà tiền công lại rất ít.
Tuy biết ḿnh bị bóc lột sức lao động, chúng
tôi vẫn cứ phải bám vào để làm để
kiếm miếng ăn và để bọn công an khu vực
tại phường, khóm khỏi để ư, theo dơi, làm khó
dễ. Nhất là thường xuyên bị
hăm dọa đưa đi “kinh tế mới”.
Để có thêm tiền cà phê,
thuốc lá, mỗi buổi chiều trước khi ra
về, chúng tôi khi đi làm ai cũng thủ theo
ḿnh một bao bố, hốt mót mạt cưa để
chở về bán cho nhiều người mua để
đun bếp. Những năm sau “giải phóng”, thực
phẩm, thóc gạo, nhu yếu phẩm… cả những
chất dùng để đun nấu như củi, than,
dầu lửa… cũng bị đảng giải phóng theo, đi đâu mất hết. Người ta phải dùng đến vỏ
trấu lúa, mạt cưa, rơm rạ để thay
thế.
Tay Giám đốc của
xưởng gỗ Điện Biên này, tên là Nguyễn
Hưng, nghe nói trước 75 đă “nhảy núi” một
thời gian, sau về đầu thú. Nhưng
cốt khỉ vẫn là một tên Việt cộng nằm
vùng, làm “kinh tài” cho “Vẹm”. Có điều chúng tôi
lấy làm thắc mắc là tại sao hắn ta lại
rất “nhân đạo”, dễ dăi sẵn sàng thu nạp
chúng tôi, những “tù cải tạo”, trong lúc các nơi khác
đều nh́n chúng tôi như những kẻ cùi hủi.
Họ lập tức xua tay vừa khi
thấy ba chữ “Giấy ra trại” trong lư lịch chúng
tôi lúc nộp đơn xin việc.
Măi cả năm sau chúng tôi
mới vỡ lẽ khi thấy lăo Bảy Hạnh,
trưởng trại A.30, trung tá Hạnh, được
tên giám đốc Điện Biên niềm nở, lăn
xăn đón tiếp tại văn pḥng xưởng.
Một anh bạn cũng tù, làm
thư kư trong văn pḥng, nghe lơm được cuộc trao
đổi giữa hai tên trong lúc cụng ly “chúc mừng
đồng chí”, kể lại lư do thu nạp chúng tôi vào làm
trong xưởng chẳng phải v́ lư do “nhân đạo” ǵ
sất mà là chúng cấu kết với nhau, từ thằng
đại tá Đại, Trưởng ty Công an Phú Khánh đến
thằng Bảy Hạnh, Trưởng trại A.30 và tên
Hưng, Giám đốc xưởng cưa gom chúng tôi
lại một chỗ, vừa bóc lột tiền công
vừa dễ bề kiểm soát hành vi hàng ngày mà thôi.
Tuy đă biết
vậy, nhưng chúng tôi đều là những kẻ có
“tiền án”, ai dám đứng lên phản đối hay
đ̣i hỏi quyền lợi? Chỉ một cú điện thoại
của tên Hưng là chúng tôi bị lập tức bị c̣ng
tay và “tù mút chỉ cần câu”! Đành
phải cắn răng chịu điều uất ức.
Thế đấy! Cộng
sản làm ǵ có quả tim mà biết
đến nhân đạo. Chỉ là dối
trá và âm mưu tất.
Hàng ngày chúng tôi đạp xe
đạp từ Nha Trang xuống B́nh Tân làm việc
đều đi ngang qua cái cḥi và luôn thấy anh Thanh, lúc
ngồi bó gối nh́n trời, ph́ phà thuốc lá rất nhàn
nhă, lúc hí hoáy vá xe hay lật giây sên cho khách với hai bàn tay
cáu bẩn dầu mỡ.
Con đường từ “ngă ba
trụ cờ”, nay là “ngă ba cái cḥi”, anh em chúng tôi đổi
cách gọi lại như thế cho hợp với “t́nh h́nh
đất nước”, đến xưởng cưa
Điện Biên chưa được tráng nhựa, toàn là
đá dăm lởm chởm, sắc cạnh, rất ác
hại cho mấy cái vỏ xe đạp chúng tôi.
Chiều nào trên đường
về, cái bao bố tạ nén căng phồng mạt
cưa, e nặng tới 50 Kg cũng nằm vắt ngang trên
cái “bọc ba ga” được ràng chằng chịt bởi
mấy sợi cao su ruột xe hơi, cứ lắc lư
theo nhịp lăn nhồi xóc trên đám đá dăm, y
như kiểu “ngựa phi đường xa”, theo nhịp
đập hồi hộp của trái tim, lo sợ không
biết cái vỏ, cái ruột xe bị lủng hay nổ
bất tử lúc nào không biết.
Đến khi chiếc xe leo lên được đoạn
đường tráng nhựa bụng mới thở phào
nhẹ nhơm.
Một hôm, cái
điều lo lắng lâu nay đă đến với tôi. Bánh xe sau
bị đá dăm đâm lủng khi mới ra khỏi
xưởng cưa nửa đường. Cũng
phải, cái vỏ đă ṃn lắm rồi. Không lủng bữa nay th́ ắc phải bữa
mai. Tôi dắt chiếc xe xẹp
bánh với bao mạt cưa nặng như đá tảng
bên trên tới được cái cḥi th́ đă gần
hụt hơi rồi.
Hàng ngày tôi vẫn
đi, về hai lượt, ngang qua cái cḥi này chẳng
để ư ǵ. Vả lại cũng chẳng có ǵ để
lưu ư ngoài ông chủ cḥi ngồi trước cửa bó
gối nh́n trời, nh́n kẻ qua lại. Hoạ
hoằn đôi lúc, liếc mắt ngang một chút, nh́n vào
bên trong cḥi để thấy sự nghèo nàn, tuềnh toang
của nó, để cảm thấy rằng ḿnh cũng c̣n
có mái nhà đàng hoàng hơn, c̣n hạnh phúc hơn,
để tự an ủi cho thân ḿnh.
Hôm ấy là mùa hè, tuy đă
hơn 5 giờ chiều mà trời c̣n sáng lắm. Mặt trời hăy c̣n chói chang trên đỉnh núi
phía Tây. Trong lúc ngồi chờ vá lại vỏ,
ruột chiếc xe, tôi có dịp nhẫn
nha quan sát và truyện tṛ cùng với anh Thanh. Chị
vợ đang loay hoay trong bếp cho bữa cơm
chiều.
Biết ra, anh là
lính hải quân của Trung tâm Huấn luyện Hải quân
Nha Trang, cấp bậc thượng sĩ, phụ trách
tiếp liệu.
Lần này tôi có dịp ngắm kỹ anh.
Khuôn mặt chữ điền, trán cao, mái tóc
đen, dầy, buông dài xuống gáy. Mũi
thẳng, miệng rộng. Nét rắn
rỏi và cương nghị vẫn c̣n sót lại trên khuôn
mặt hốc hác. Lưỡng quyền nhô cao, hai má
lơm vào trông anh già sọm trước tuổ.i Thần h́nh
cao nḥng ốm teo, đôi cánh tay gầy
g̣, hai bàn tay khô héo, xương xẩu. Tuy nhiên
đôi mắt anh hăy c̣n tinh anh lắm. Trong
khi nói chuyện, thỉnh thoảng, giọng anh trở nên
sôi nổi, mắt anh quắc lên như có ánh lửa lóe lên
trong đó.
Tôi dè dặt gợi chuyện:
-Anh không bị “cải tạo”
sao gia đ́nh không trở về quê quán làm ăn
mà ở đây làm chi cho khổ vậy?
H́nh như được
khơi đúng nguồn u uất nén kín lâu nay, anh tuôn tràn tâm
sự:
-Hồi tụi nó mới vô Nha
Trang, tụi nó chiếm khu gia binh này ngay, đuổi
tất cả chúng tôi về quê quán cũ. Tôi
với vợ tôi là dân Bắc di cư 54 làm ǵ có quê quán mà
về. Tôi đă trốn chạy chúng
một lần rồi, giờ chạy đi đâu nữa.
Không c̣n chổ ở, chúng tôi phải che cḥi
ở tạm tại đây chờ thời…và quyết
liều chết với chúng môt phen.
-Thời ǵ? Chờ
phục quốc hả? Tôi đùa.
-Chớ sao anh? Ḿnh đâu có
bại trận, đâu có đánh đấm ǵ đâu mà thua
tụi nó! Nghĩ lại càng tức! Anh biết không! Ḿnh bỏ chạy một phần cũng v́ cái
đài BBC chết tiệt đó. Tôi c̣n
nhớ như in.
H́nh như bao nhiêu
năm nay, anh nhẩm đi nhẩm lại những ngày tháng,
giây phút đen tối đó măi, đến nỗi thuộc
ḷng. Anh nói thao
thao:
-Ngày 11 tháng 3 tuy Ban Mê Thuột
bị thất thủ nhưng mặt trận Pleiku – Kon Tum
vẫn c̣n chiến đấu ác liệt với quân Bắc
Việt nhưng cái đài khốn nạn này lại loan tin
hai tỉnh này đă bị Việt cộng tràn ngập,
đường số 7 bị cắt đứt. Tin này làm cho dân chúng hoang mang, đổ xô nhau di
tản. Tiếp theo, ngày 19 tháng 3
tỉnh Quảng Trị cũng y chang với cái đài BBC.
Tiếp theo đó, mỗi ngày nó loan tin
một, hai tỉnh bị mất. Lần
lượt các ngày 22, 24, 29, 31 tháng 3, dân chúng từ Quảng
Trị chạy ùa vào Thừa Thiên. Thừa
Thiên náo loạn bồng bế nhau chạy vào Huế. Rồi đến Quảng Ngăi, Đà Nẵng, B́nh
Định, Phú Yên, dân chúng nghe đài BBC, nghe tin đồn,
cứ thế hoảng hốt kéo nhau chạy trốn.
Đám dân di tản cứ tăng lên dần, đông
nghịt cả mấy trăm ngàn, đàn bà, trẻ con kêu
khóc vang trời, lê thê, lếch thếch đầy
đường. Lính ḿnh từ Pleiku, Kon Tum
chạy xuống, từ Đà Nẵng chạy vào. Hỗn quân, hỗn quan. Trước t́nh
thế ngày càng rối ren, hỗn loạn như thế
mấy ông tướng của ḿnh cũng đành bó tay bất lực, không cách ǵ giữ ǵn
trật tự được nữa. Bọn
cộng sản cứ thế kéo vào không tốn một viên
đạn. Chúng không ngờ lại
thắng một cách dễ như vậy.
Có lẽ nỗi
ḷng bị dồn nén bấy lâu nay gặp được
đuợc người đồng cảnh ngộ, anh
xả láng cho hả bầu tâm sự mà không một chút e dè,
rào đón.
-Lúc ấy anh vẫn c̣n ở
Nha Trang không?
-C̣n chớ anh. Ngày 2 tháng 4
tụi nó mới vào Nha Trang nhưng chỉ có vài thằng
nhóc con vào thăm chừng thôi chứ xe
tăng, thiết giáp chưa dám vào. Chúng
đứng gác trước Trung Tâm mà mặt mày xám ngoét.
Bọn đi hôi của chở đồ
đạc trong Trung Tâm ra lềnh khênh trước mặt
mà có dám ngăn chận đâu. Cả hai
cái kho gạo ngoài biển cũng bị cướp, phá.
Chúng đứng đó mà chỉ giương
mắt ra nh́n thôi.
-Sao vậy?
-Có lẽ tụi nó sợ
bị lừa vào tṛng. Thật ra trước
đó một tuần, Nha Trang có lệnh quyết tử
thủ. Tiểu khu Nha Trang và các yếu
điễm đều dàn trận chờ tụi Vẹm
vào. Trung tâm Hải quân cũng xây nhiều lô cốt
bằng bao cát, đặt súng trung liên, đại liên, súng
cối chung quanh hàng rào pḥng thủ quyết
đánh một trận. Lính tụi tôi
được lệnh ứng chiến 100%, đầy
đủ hỏa lực.
-Nhưng có đánh đấm ǵ
đâu? Tôi lúc ấy cũng đang ở Nha Trang đâu có
nghe tiếng súng nổ nào?
-Bởi vậy mới tức
anh à. Không biết lư do tại sao. Vào ngày 29, 30
tháng 3, dân chúng từ cao nguyên tràn về, từ miền Trung
ào vô, Nha Trang trở nên lộn xộn vô cùng. Ai nấy đều nhốn nháo không biết t́nh
h́nh ra sao. Đến khi biết được
mấy ông sếp lớn Chỉ huy trưởng ở
Tiểu khu, ở Trung tâm Không quân, Hải quân đều
dzọt mất tiêu hồi nào không hay, bỏ mặc lính
tụi tôi ở lại như rắn không đầu th́
thiên hạ bắt đầu đại loạn.
-Nghe nói trong Trung tâm có một
vị sĩ quan tự sát cùng vợ con chứ không chịu
hàng giặc?
-Dạ, Chính là ông Thầy tôi
đó anh. Ông ta là Trung tá Hà ngọc
Lương, Trưởng Khối Văn hóa vụ. Lúc đó mạnh ai nấy chạy. Ngày 29/3,
một chiếc tàu Hải quân 402 cặp trước băi
để bốc toàn bộ gia đ́nh Hải quân Trung tâm
đi nhưng lính các binh chủng khắp nơi tràn về,
ào xuống băi tranh nhau lên tàu, có nhiều người toan
nổ súng để làm loạn khiến cho chiếc tàu
phải rời bến, neo ngoài khơi đảo Trí Nguyên,
bỏ lại tất cả mọi người. Ngày 31/3 thêm một chiếc Hải quân 401 cặp
bến Cầu Đá cũng gặp cảnh hỗn loạn
tương tự nên đành kéo neo bỏ đi. Trên
bến cảng, xe hơi, xe gắn máy
đủ loại bỏ ngổn ngang, súng ống vất
lại bừa băi, la liệt. Một quang
cảnh trông thật điêu tàn, ghê rợn. Gia đ́nh
Trung tá không thể xuống tàu di tản theo
đơn vị.
Đêm ấy ông đă cùng
vợ và hai con tự sát trong văn pḥng làm việc của
ḿnh. Măi đến 5 ngày sau bọn
Việt cộng mới dám xâm nhập vào Trung tâm Hải quân
và phát hiện ra thi thể của gia đ́nh Trung Tá. Lúc ấy tử thi đă bốc mùi rồi.
-Ngay lúc Trung tá Lương
tự sát anh có biết không?
-Không! Lúc đó lính
tụi tôi tản lạc hết. Trung tâm
bỏ trống mà. Măi sau này tôi mới
nghe kể lại. Rồi có ngày tôi
sẽ trả thù cho ông Thầy. Nhất
định phải trả thù.
-Anh làm cách nào mà trả thù?
-Một mạng tôi đổi
mười mạng, hai mươi mạng tụi nó!
-Anh nói chơi hay nói thật?
-Thật mà chơi! Chơi mà
thật đó anh!
Anh ta nói xong
cất tiếng cười to há há nghe sảng khoái và ngang
tàng lắm. Tôi
cũng cười theo cho vui chứ thâm
tâm không nghĩ ǵ về lời của anh. Chẳng qua
chỉ là một cách để xả xú bắp cho hả
hơi.Trong lúc lắp ruột xe vào
vỏ, anh tiếp tục kể về cuộc sống
mấy năm nay của anh ở đây. Anh
không có hộ khẩu nên không được cấp tem
phiếu để mua gạo, thực phẩm. Tất cả nhu cầu đời sống
phải mua “chui” bên ngoài giá rất đắt. Anh đă làm đủ thứ việc như lên
rừng đốn củi, đốt than một thời
gian. Chúng ra lệnh cấm. Phải
xuống chợ xin khuân vác, đạp xe
ba gác chở mướn… nhưng vẫn không đủ
sống. Làm được đồng nào xào
đồng nấy qua ngày. Nghề cuối cùng là ôm
thùng đồ nghề sửa, vá xe
đạp. Có hôm không có khách sửa xe,
không tiền mua gạo, phải húp cháo loăng. Bị
đưa đi “kinh tế mới” Nhiễu Giang,
Đồng Trăng mấy lần. Cứ ăn hết gạo cấp 3 tháng, vợ
chồng anh lại bỏ vùng để trốn về.
Phường, khóm
nhiều lần kêu lên kiểm điểm, hăm dọa
bắt đi cải tạo. Anh liều mạng đổ
lỳ, trây ra, ù lỳ. Riết rồi
phường khóm cũng bỏ lơ. Anh
rút được kinh nghiệm là “ḿnh không sợ nó th́ nó
phải sợ ḿnh”.
Sau lần tṛ chuyện
tâm sự đó chúng tôi trở thành quen biết. Thỉnh
thoảng tôi biếu anh bao mạt cửa để dùng.
Có chút vậy mà vợ chồng anh cứ cám
ơn rối rít. Bù lại khi vá ruột xe
hay chửa xe cho tôi anh nhất định không nhận
tiền công. Anh cứ xuưt xoa:
-Tội nghiệp cho mấy ông
“cải tạo” quá!
Ngày ngày đạp xe ngang qua cḥi, chúng tôi giơ tay chào nhau kèm theo
nụ cười tương ái. Đôi lúc bánh xe non hơi, tôi ghé vào mượn anh cái
bơm, mời anh điếu thuốc. Anh
mời ly trà nóng. Lại cùng nhau rỉ
rả vài ba chuyện đời.
Anh lại kể cho tôi nghe
những thủ đoạn ăn cướp, nói láo
của bọn cộng sản như thế nào để
cướp bóc tài sản của người dân trong
thời gian chúng tôi bị cách biệt trong trại tù, không
một chút thông tin nào ngoài đời. Cứ sau mỗi
lần tṛ chuyện, anh lại kết luận một câu
bất di bất dịch:
-Anh nên nhớ là bọn cộng
sản muôn đời vẫn chỉ là một bọn ăn cướp và nói láo mà thôi. Đừng bao giờ tin nó.
Biết chúng tôi trước là
giáo chức, anh khuyên:
-Mấy anh là thầy giáo
hiền lành rất dễ tin người nên bị tụi
nó lừa ở lại dạy học cho nó. Dạy
xong là bắt đi ở tù, bọn chuyên vắt chanh bỏ
vỏ mà, c̣n bị ghép là có nợ máu với nhân dân.
Nợ máu ǵ với mấy ông thầy giáo! Thật là
một bọn khốn kiếp, chó đẻ!
Trong những buổi học
tập chính sách tại Tổ dân phố, anh thẳng
thừng vạch ra những điều dối trá, tiêu
cực, tham nhũng, hạnh hoẹ người dân của
cán bộ, công an đă làm cho bọn này không sao biện minh
được khiến chúng cay cú ghép anh vào tội phản
động, nói xấu cách mạng. Mọi
người đều lo sợ cho vợ chồng anh.
Nhưng anh không hề sợ sệt. Anh
bảo:
-Chúng kết
tội tôi vào thành phần cực kỳ phản
động. Mà phản động thật.
Phản động ngang nhiên chẳng sợ
thằng chó nào. Bất quá chúng bắt bỏ tù hay
chết là cùng chứ ǵ? Sống mà bị áp
bức bóc lột khổ hơn chó th́ sống làm ǵ?
Có lần, mấy thằng
bộ đội đậu xe tải giăng hàng
trước cửa cḥi của anh cả buổi để
vào ăn uống, nhậu nhẹt trong cửa hàng Quốc
doanh gần đó, anh chạy ra quát:
-Chúng mày đưa xe đi chổ khác ngay, nếu không tao
bắn chết hết cả lũ ngay!
Đám bộ đội
thấy thái độ cương quyết, ngang tàng của
anh cũng đâm ra khiếp phải đưa xe đi chổ khác.
H́nh như cuộc
sống anh ngày càng khó khăn. Con đường vào ngă ba trụ cờ
thời gian sau ngoại trừ đám cu ly chúng tôi phải
đi qua để đến xưởng cưa ra,
rất ít có người đi lại con đường
này. Có ngày chả có người khách nào lai
vảng.
Một hôm tôi ghé lại
để mượn ống bơm để bơm thêm ít
hơi vào bánh xe sau hơi mềm, anh
mời tôi uống nước và nói:
-Có lẽ vài ngày nữa tôi
sẽ đi xa khỏi nơi này.
-Anh định đi đâu? Mà sao lại đi? Ở đây
không tốt sao?
-Bọn phường khóm
buộc chúng tôi phải đi “kinh tế mới”. Lần
này hơi gay đây!
Anh trầm ngâm một lúc
rồi nói nhỏ:
-Trước khi đi tôi
phải cho chúng biết tay mới
được!
-Anh lại nói về việc
trả thù cho ông Thầy phải không? Tôi
cười đùa.
-À! Biết chừng đâu
đó! Không biết chúng tôi sẽ đi lúc nào
nên chúc cho ông giáo ở lại mạnh khoẻ nhé.
Không ngờ đó
lại là lần cuối cùng tôi gặp anh.
Mấy tuần sau đó, vào
một buổi sáng đầu tháng 9 năm 1982, như
mọi ngày tôi đi làm, gần tới ngă ba trụ cờ,
tôi thấy rất đông người tụ tập
nhốn nháo ở tại cḥi của anh Thanh. Nhiều
công an, du kích, bộ đội đang bao vây căn cḥi.
Tôi dừng xe
hỏi chuyện mấy người dân đứng xa xa.
Họ kể:
-Sáng sớm nay bỗng nhiên nghe
trong cḥi có hai tiếng súng nổ. Được báo tin, hai
ông Trưởng, Phó và Ban An ninh Khóm Hoàng
Diệu dẫn công an khu vực, du kích đến hiện
trường xem xét việc ǵ đă xăy ra. Khi
đến nơi, xô cửa vào, họ thấy chị Tám
nằm chết trên giường, máu từ màng tang chảy
ra ướt cả vũng. Anh Thanh c̣n trân trân chưa
chết, ngồi dưới đất, lưng dựa vào
giường chị Tám, hai mắt mở trừng
trừng, tay phải c̣n cầm chắc
khẩu Colt 45. Máu từ hai lỗ tai
vẫn c̣n tiếp tục chảy. Thấy thi thể
chị Tám đang nằm sấp, tên Trưởng Ban An ninh
đưa tay lật ngữa chị ra để xem xét th́
bất ngờ trái lựu đạn nằm ở
dưới bụng chị bung ra, nhảy tưng lên, làm
cả bọn chúng hết hồn,
vừa xô nhau phóng ra khỏi cḥi, vừa la lên bài hăi:
- Chết! Chết! Có lựu
đạn! Có lựu đạn!
- Nằm xuống mau! Nằm
xuống mau!
Hồi lâu quả
lựu đạn vẫn chưa nổ nên mọi
người phải dạt ra xa để pḥng
chừng. C̣n đám An ninh đang
cuống quít gọi điện xin tỉnh cho toán chuyên môn
cháy nổ xuống tháo gỡ.
Tôi nghe xong, bàng
hoàng, lặng người đi một lúc. Không ngờ
lời nói của anh Thanh khi trước, tôi nghĩ là nói
cho vui, cho hả nỗi uất hận thôi, đâu ngờ
hôm nay lại thành sự thực. Anh
đă thực hiện lời nguyền trả thù cho ông
Thầy trước khi đi xa. Bỗng nhiên lời
anh nói với tôi hôm nào cách đây không lâu, chợt vang lên
văng vẳng bên tai, cùng tiếng
cười ha ha ngang tàng:
-Một mạng tôi đổi
mười mạng, hai mươi mạng tụi nó!
Tôi không c̣n ḷng
dạ nào để đi đến xưởng nếu
chưa biết hết đầu đuôi câu chuyện
thương tâm này. Tôi quyết định bỏ một buổi làm
và đứng đợi màn cuối của vở bi kịch .
Một lúc sau, một chiếc xe Motolova chở toán chuyên viên chất nổ
tới. Họ đuổi tất cả mọi
người hiếu kỳ cùng đám du kích, công an dạt ra khá xa cái cḥi trước khi
họ vào việc tháo gỡ quả lựu đạn. Chỉ mươi phút, họ hoàn tất công
việc. Hóa ra quả lựu đạn
bị chôn giấu dưới đất lâu năm nên
bị ẩm, không kích nổ được. Mọi người thở phào nhẹ nỗi lo âu
tự năy giờ.
Bấy giờ
mọi người mới tiến gần lại cḥi
để nh́n rơ nạn nhân. Có tiếng la lên:
-Thằng phản động
chưa chết! Coi chừng nó bắn!
-Bắn cho nó chết hẵn
đi cho xong!
Lúc này anh Thanh
cũng vẫn chưa chết hẵn. Viên đạn tự sát
bắn vào tai không làm anh chết ngay
như viên đạn anh bắn chính xác vào thái dương
của vợ.
Tiếp theo
đó là mấy phát súng A.K của du kích bắn vào
đầu anh Thanh làm vỡ toác sọ và anh thực sự
gục xuống. Người ta c̣n t́m được
một lá thư tuyệt mệnh của
vợ chồng anh để lại gửi cho đảng
và Nhà nước cộng sản. Lá thư
được dằn dưới một tô cháo c̣n nguyên
chưa đụng đũa, đặt trên chiếc bàn
gỗ. Nội dung lá thơ không ai được biết.
Lăo Bí thư tỉnh đă đút túi
giấu biến đi. Nhưng tôi đoán
biết được trong đó anh Thanh đă viết
những ǵ. Đó là những lời tố cáo một
chế độ ăn cướp, độc ác, hung
bạo, áp bức, tàn nhẫn và bọn người ngu
dốt đầy tham vọng đă đi theo một
chủ nghĩa ngoại lai vô luân, t́nh nguyện làm tay sai cho
đế quốc Cộng sản, d́m dân tộc vào điêu
linh thống khổ.
Tên Bí thư
Tỉnh sau một hồi hí hoáy lập biên bản hiện
trường, ngẩng đầu lên tuyên bố:
-Đây là một
vụ thanh toán nội bộ để bịt đầu
mối của một mạng lưới của bọn
phản động, phản cách mạng, có âm mưu lật
đổ Nhà nước ta, đang bị lộ. Đồng bào
không nên bàn tán linh tinh mà mất lập trường.
Nửa tiếng sau, một
chiếc xe Lam được
Phường đưa tới, trên có hai cổ quan tài
gỗ tạp thô sơ, để bỏ hai thi thể
xấu số vào đem đi. Xe vội vă chạy về
hướng Phước Hải Hạ. Có lẽ bọn
chúng sẽ vùi lấp hai thi hài đáng thương ở
đâu đó ở ven rừng hay ven núi trong Đồng Ḅ
cho xong chuyện. Có mấy người dân tốt bụng
đốt vội bó nhang, chạy theo xe
Lam, cố đặt trên hai quan tài, mong chút hương khói
ấm cúng đưa tiễn, an ủi linh hồn kẻ
bất khuất bớt lạnh lẽo. Bọn du kích quát
nạt:
-Vợ chồng thằng
phản động chết là đáng đời rồi!
Không có nhang khói ǵ hết!
Đám đông đứng
lặng yên, ngẫn ngơ nh́n theo,
ngậm ngùi. Có người lâm râm cầu kinh.
Có người niệm Phật. Có người đưa tay lên chùi nước mắt đang chảy
dài trên mặt.
Ḷng tôi rối
bời xốn xang, cũng không làm sao ngăn
được hai hàng nước mắt tuôn rơi. Bất chợt
tôi nhận ra là tôi cũng đang th́ thầm cầu
nguyện cho linh hồn hai vợ chồng anh Thanh, chị
Tám sớm được siêu thoát khỏi cơi trần gian
đầy đau khổ này. Trong vô thức, bàn tay phải của tôi bỗng tự
động giơ lên ngang mày như một cái chào tiễn
biệt theo lễ nghi quân cách.
-Vĩnh biệt anh Thanh, chị
Tám! Vĩnh biệt những người chiến sĩ kiên
cường bất khuất!
* * *
Căn cḥi bị bọn du kích
phóng hỏa sau đó.
Hàng ngày, đạp xe đi ngang
qua ngă ba trụ cờ, chỗ căn cḥi xưa, tôi vẫn
có cảm tưởng trong sương mù buổi sớm hay
trong ánh sáng chập choạng buổi chiều chạng
vạng, nhá nhem, h́nh bóng vợ chồng anh chị Thanh lúc
mờ, lúc tỏ, vào ra căn cḥi như đang khi c̣n
sống.
Ngă ba trụ cờ giờ
đây không c̣n căn cḥi nữa. Khoảng đường
từ đó vào xưởng cưa Điện Biên h́nh
như xa hơn trước và gió biển rạt rào
thổi vào khoảng đất trống rộng mông mênh
không có ǵ che chắn như trước
h́nh như cũng lạnh hơn nhiều.
Tháng 9, mùa thu
năm 1982, cái lạnh đất trời dường
như đến sớm hơn mọi năm.
Những buổi chiều
bất chợt có mưa giông, gió lớn, sấm chớp loé
lên từng lúc trên bầu trời đầy mây đen
nghịt, đạp xe về ngang qua
chỗ căn cḥi, tôi cứ có cảm giác ớn lạnh,
rùng ḿnh.
Tháng 4 năm 1975, gia đ́nh Trung
tá Hải quân Hà Ngọc Lương tuẩn tiết tại
Trung Tâm Huấn luyện Hải quân để giữ tṛn
khí tiết một sĩ quan. Thà chết
chứ không chịu nhục.
Tháng 9 năm 1982,
gia đ́nh thượng sĩ Hải quân Thanh cũng
quyết lấy cái chết để tỏ hào khí ngất
trời của ḿnh, nhất định không cúi đầu
trước ác quyền. Và cũng để trả thù cho ông Thầy, ông
Thầy với ư nghĩa cao cả của
nghĩa t́nh “huynh đệ chi binh”.
Than ôi! Hận cho
chí cả không thành. Mưu sự tại nhân, thành
sự tại thiên!
Tiếc thay, thương thay!
Anh Thanh thân kính,
Đă hơn hai mươi
năm qua rồi, tuy nay tạm dung nơi đất khách,
nhưng cứ mỗi “tháng tư oan nghiệt” trở về,
tôi lại nhớ đến anh và ân hận trong ḷng măi
một điều là chưa có dịp hỏi anh,
người chiến sĩ cang cường với
đầy đủ tên họ, để bây giờ
mỗi khi nhắc đến anh th́ chỉ biết vẻn
vẹn một cái tên Thanh duy nhất.
Hôm nay, ngồi kể lại câu
chuyện đầy bi thương nhưng rất hào hùng
của anh, ḷng tôi ray rứt không yên, tự trách ḿnh sao
đă quá vô t́nh.
Xin nói với anh điều này,
có lẽ anh sẽ rất vui nơi suối vàng là câu nói
của anh hôm nào “Ḿnh không sợ nó th́ nó sẽ sợ ḿnh”
đúng như câu châm ngôn “Hăy làm những ǵ cộng sản
sợ mà đừng sợ những ǵ cộng sản làm”
nay đă thành hiện thực. Nhân dân Việt
Họ đă nổi dậy
biểu t́nh khắp nơi, từ Nam ra Bắc, có lúc lên
đến hàng vạn người, kéo dài hàng tháng, hàng
năm, để tranh đấu đ̣i lại đất
đai, đ̣i lại quyền sống, đ̣i lại
tự do đă bị bọn chúng cướp đi hơn
nửa thế kỷ. Và đặc biệt hơn nữa,
họ đă dám chống cự và đánh trả lại
lực lượng công an, cảnh sát
của chúng. Điều từ trước
đến nay chưa một ai dám làm.
Cộng sản giờ đă run
sợ, đă chùn tay, đă co cụm
lại rồi. Ngày tàn của bè lũ
Việt gian phản quốc, phản động sắp
đến ngày diệt vong.
Anh Thanh! Anh không chết đâu
anh! Nhân dân sẽ trả thù cho anh một cách
xứng đáng.
Anh đă xứng đáng với
nhân cách của ḿnh: Uy vũ bất năng khuất.
Quả thật: Anh hùng tử
khí hùng bất tử.
* * *
(Viết theo lời kể
của anh Vơ.văn.Th, ở San Jose, một người
bạn tù A.30 để tưởng niệm ngày 30/4/1975)
Nguyễn
Thanh Ty 23/4/10