VĐH
THÀNH PHỐ
ÊM ĐỀM
VŨ Đ̀NH HIẾU
-Sinh
quán làng Yên Thái (Bưởi) Hà Nội.
-Cựu
sinh viên Đại Học Khoa Học Saigon.
-Cựu SQ Biệt Động
Quân.
-Sang Hoa Kỳ năm 1975, đi học
trở lại.
-BS (Cử Nhân) Toán.
-MS (...) Computer Science.
-Ph. D. Management Information Systems.
-Đă giảng dậy cho một
số viện đại học ở Hoa Kỳ, đại
học RMIT Việt
-Đang
dậy Information Technology cho
Tuần lễ
đầu tiên ở
Hôm khác, Senada đưa tôi cùng
với ba ông thầy khác đến nhà băng Raiffeisen mở
trương mục để nhà trường trả lương
mỗi tháng. Họ làm việc rất nhanh, v́
nhà trường có ngân khoản trong nhà băng và nhân viên làm
việc đă quen biết nhau. Tôi lại có dịp
đi dạo khu trung tâm thành phố, nơi tập trung
văn pḥng hành chánh, sở cảnh sát, công ty, cửa tiệm
buôn bán, quán ăn... Đường phố tấp nập
người đi bộ trên vỉa hè, trên đường
chỉ thấy xe hơi (auto) nhưng vẫn
chưa trông thấy xẩy ra tai nạn hoặc kẹt xe.
Không như ở Việt Nam,
lúc nào cũng có xe gắn máy “Honda” chạy ngoài đường,
tiếng máy xe ầm ĩ. Năm tôi dậy học cho trường
đại học Úc (Australia), Royal Melbourne Institute of
Technology ở Việt Nam, cũng phải nhờ một ông
bạn đứng tên mua chiếc xe Honda đi làm. Mỗi lần
ra đường, cả một “sư đoàn” xe Honda chèn ép tôi, danh từ ở Việt
-
Cho coi bằng lái xe?
-
Tôi không có... Chưa thi bao giờ... (có sao nói vậy... người ơi!)
-
Đưa coi chứng minh nhân dân?
-
Không có... (vừa trả lời vừa
lắc đầu)
-
Cái ǵ cũng không có... Vậy chứ
ông làm ǵ ở đây?
-
Tôi dậy học cho trường
Úc... (vừa nói tôi vừa chỉ tay lên
nón an toàn có logo trường RMIT... cái nón này... cũng không phải...
bỏ tiền ra. Tôi xài toàn... đồ chùa).
-
Cho coi passport?
-
Cũng không có luôn... Nhà trường
giữ để xin gia hạn visa cho tôi.
-
Trời đất... (kêu trời
cũng không thấu)
Ông công an trợn
to mắt nh́n tôi, rồi bước lại chỗ ông thứ
hai đang “hành tội” một nạn nhân khác, nói chuyện
đôi ba câu, rồi bước lại chỗ tôi.
-
Vậy chứ bây giờ ông có tiền
đóng tiền phạt không?
Đóng tiền phạt
50 ngàn đồng VN (năm 2008 khoảng 3 đô la), họ
cho đi. Tôi không tiếc số tiền phạt, nhưng
vẫn băn khoăn... mắt mũi ḿnh để
đâu! Về đến nhà, mấy anh sinh viên ở nhà trọ
gần đó, thường ngồi tán dóc nơi quán cà phê,
nói với tôi... Chú hên lắm đó, người khác họ
giam xe luôn rồi!
Qua tuần lễ thứ hai,
chúng tôi được thông báo phải vào trường hôm
thứ Ba, nhà trường có một buổi “nói chuyện”
(orientation) để trả lời các câu hỏi của những
người mới đến và cũng là buổi họp
để biết thời khóa biểu dậy học, sách vở,
những thủ tục linh tinh...
Nhận xét sơ khởi, lề
lối làm việc rất lè-phè... các vị giáo sư, có việc
mới vào trường, th́ giờ c̣n lại đi dạo
phố, ăn uống trong khu khu phố cổ hoặc trung
tâm thành phố, những người đă dậy cho trường
từ những năm trước dường như...
không thấy. Sáng thứ Hai như thường
lệ, uống xong ly cà phê, tôi đi bộ đến trường
soạn bài để giảng dậy. Khoảng 10 giờ
sáng, nhận được email từ Dr. Melvin Sterne, đă
dậy môn Anh Văn (English) cho
Từ hôm mới đến,
tôi chỉ biết đi bộ đến trường,
ngoài ra đi đâu cũng có xe đưa
đi nên vẫn chưa biết đường đi đến
khu phố cổ. Đang phân vân, ông bạn
Kenneth Szulczyk dậy môn Tài Chánh (Finance) bước vào, ông ta
đến
Ken cùng với tôi thả bộ
ra đến con đường chính Rudarska đón xe taxi đi khu phố cổ. Đến một
ṿng xoay nhỏ, người tài xế xe
taxi ngừng lại để chúng tôi xuống, luật cấm
không cho xe chạy vào bên trong. Chúng tôi theo con đường
dốc hơi uốn cong lát đá xanh có bề mặt nhỏ
hơn bàn tay, ở Saigon ngày xưa có những đoạn
đường ngắn, như con đường nhỏ
bên hông bưu điện Chợ Lớn có lát những viên
đá xanh này nhưng to hơn.
Tôi
nghĩ thầm, cho xe vào cũng chạy
không được, mặt đường đá xanh gồ
ghề, vả lại đă trông thấy những cửa tiệm
bán hàng, đồ kỷ niệm cho du khách. Trên vỉa hè củng
như dọc theo con đường,
đông người qua lại, nhiều người trẻ
trung... đây cũng là chốn hẹn ḥ. Cuối con đường
là một công trường (khoảng trống) rộng lớn,
ở chính giữa là một ṿi nước lớn (fountain)
đang phun nước, xung quanh ṿi nước có những
băng đá tráng men như gạch bông, xếp h́nh ṿng cung
cho khách nhàn du dừng chân, ngồi ngắm khung cảnh xung
quanh.
Hai chúng tôi đến hơi sớm,
Ken đă quen thuộc với khu này đưa tôi đến
một cửa tiệm bán đủ thứ đồ dùng,
ly tách, quần áo... Ông ta nói với tôi, có cô bán
hàng người Tầu, tôi cũng mong gặp người
đồng hương. Tiệm này lớn,
có hơn năm cô tiếp khách, mời mua hàng. Ngay quầy
tính tiền có hai cô trông ra vẻ Á Đông, tôi hỏi thử
câu tiếng Anh bâng quơ, cả hai không hiểu, kèm theo câu tiếng Việt, cũng không... Tôi mua
một cái dù xài tạm, mấy hôm nay trời hay có mưa
lâm râm, sáng nào cũng có sương mù, đến gần 10
giờ sáng mới tan. Những hôm trời mưa
nhỏ như bụi, khi mặt trời vừa tắt nắng,
sương đă xuống.
Ra khỏi tiệm,
chúng tôi nhận ra ngay Melvin và Barbara đang đứng đợi
nơi ṿi nước lớn. Bốn người
đi lại chỗ có căng mấy cái dù che nắng lớn
trước mặt một dẫy nhà sơn trắng cao ba
tầng trông rất đẹp, cổ kính. Tôi nh́n ṭa nhà đồ sộ, nơi tầng chệt
là dẫy cửa hàng bán nước uống giải khát, có
bàn bên trong, nhưng đa số thích ngồi ngoài để
nh́n ngắm khung cảnh. Chúng tôi gọi
nước uống xong, các bạn đồng nghiệp bắt
đầu kéo đến.
Nhóm giáo sư trường
Ngồi nói chuyện
khoảng một tiếng đồng hồ, chúng tôi kéo nhau
đi sâu vào bên trong khu phố cổ Centar. Nơi cuối
ṿng cung của công trường, có một đền thờ
nhỏ, dấu tích của người Thổ Nhĩ Kỳ
(Turkish) để lại từ mấy trăm năm trước.
Từ nơi này trở đi tất cả các con đường
nhỏ, ngă ngách đều trải đá xanh, có một nhà
hàng lớn bầy bàn ghế ăn uống
tràn ra ngoài đường. Cuối đường
là một đền thờ Hồi giáo (Mosque) nhỏ, có một
tháp nhọn nhô lên cao. Tôi để ư, ngôi
đền Hồi giáo nào cũng có ít nhất một cái tháp
như thế.
Tôi lẽo đẽo theo sau mấy người bạn đồng
nghiệp, vừa đi vừa ngắm cảnh sinh hoạt
của một thành phố cổ nên đi chậm. Ngôi đền Hồi giáo nằm chắn nơi cuối
đường, hai bên hông tách ra hai con đường nhỏ,
uốn cong rồi tách ra nhiều con đường nhỏ
khác như những đường gân trên chiếc lá.
Con đường nào cũng có cửa tiệm, đông người
ra vào, qua lại.
Tôi dừng lại trước
một đài tưởng niệm các trẻ em bị chết
trong trận nội chiến vừa qua (1992-1995), có mấy
bó bông hoa và một ngọn lửa lớn, có một bảng
đồng khắc chữ cổ Cyrillic và con số 950, tôi
đoán (sau này hỏi lại, không sai) thành phố Tuzla được
xây dựng (có người đến sinh sống) từ
năm 950. Thống kê mới nhất,
Đầu thế
khỷ thứ 16 (1510), dưới sự bành trướng
của đế quốc Ottoman,
Thành phố
Bên trong khu phố
cố có nhiều ngă ngách, chật hẹp, nhưng có nhiều
cửa tiệm và người qua lại. Chúng tôi
đi ngang qua một dẫy hàng quán ăn
uống. Con đường đă hẹp đông người,
họ căng dù che nắng, đặt bàn ghế ngay chính
giữa con đường, kéo dài cả đoạn đường
(block), đông nghẹt khách hàng đang ngồi ăn uống, nh́n ngắm thiên hạ dạo
phố.
Trong nhóm thầy giáo có người
rất rành về ăn uống, dẫn
đường đưa chúng tôi vào một tiệm ăn
nhỏ nằm sâu trong một ngơ hẻm. (sự thực
Tuzla là một thành phố nhỏ, chỉ cần đi dậy
học một năm cho American University, với đồng
lương USA, so với người bản xứ họ
là vua, tha hồ chi tiêu, ăn uống... và trở thành “Thổ
Công”). Tiệm ăn này hai tầng, tầng
dưới chỉ có hai bàn nhỏ và một quầy uống
rượu dành cho những vị khách đi một ḿnh. Tôi
là “cái đuôi” của nhóm thầy giáo, vừa bước
vào cửa, người bồi bàn chào hỏi rất lịch
sự, đưa tay chỉ lên lầu.
Lúc nẫy ngồi uống nước
nói chuyện nơi trung tâm phố cổ, tôi chỉ uống
ly cà phê Capuccino nên bắt đầu đói bụng, gọi
một cái Pizza và một chai bia. Về
điạ dư, Bosnia nằm nơi hướng bắc Hy
Lạp (Greece) chỉ cách Italy eo biển Adriatic Sea nên các món
ăn đặc biệt thuộc vùng biển Điạ
Trung Hải (Mediterranean Sea). Có thể v́
đói, tôi thấy ngon quá, ngon hơn Pizza ở Hoa Kỳ, người
Ăn uống xong xuôi, mọi
người chia tay ngay trước cửa
tiệm ăn (khu phố cổ rất nhiều ngă ngách).
Tôi chia tay ông bạn “nhà Tài Chánh” Ken
Szulczyk, đi theo “nhà Toán Học” David Marsden v́ cùng ở trên
đường Rudarska như tôi. David h́nh như cũng
đến thăm khu phố cổ lần đầu tiên
nên cũng là một thứ “Hiệp Sĩ Mù” như tôi... Vừa
đi vừa lẩm bẩm, ngón tay chỉ
trỏ... “ngă này... ngă này...”
Hai người
ra khỏi khu phố cổ, đến đường
Rudarska, cả hai đă biết đường về nhà.
Tôi cùng David đi chung thêm một đoạn
nữa đến một ngă tư lớn, chúng tôi chia tay.
David thuê căn apartment ở gần đó, c̣n tôi tiếp tục
đi bộ thêm khoảng hơn 10 phút nữa th́ về
đến nhà.
* * *
Sáng hôm sau tôi dậy
sớm, pha ly cà phê uống, ngồi xem
tin tức đài CNN trên TV. Xong xuôi, tôi khoác áo
đi ra đường, chưa quen biết đường
xá, nhưng vẫn phải t́m một nhà băng đổi
tiền
Ngoài đường tương
đối vắng vẻ, chỉ có một chiếc xe bus đang đậu nơi trạm dừng
để cho hành khách lên xuống. Tôi băng qua đường
Rudarska, một trong hai con đường chính chạy song
song từ đầu phố đến cuối phố, nối
với nhau qua những con đường ngắn, lớn,
rộng răi. Thành phố hẹp, nằm giữa hai rặng
núi, những ngày nắng đẹp, đứng trên
đường bên này, có thể nh́n thấy con đường
bên kia, những căn nhà nhỏ xinh xắn,
mái đỏ nổi lên giữa mầu xanh của lá cây,
đồi núi. Tôi nh́n xung quanh, có những
người đi bộ chậm răi, không vội vă, khung cảnh
thật lặng lẽ, êm đềm. Những
người dân khác của
Tôi theo con đường nhỏ uốn
quanh, xuống dốc, ở dưới là một chợ
bán thực phẩm lớn Tus, cũng rộng lớn
như chợ Kroger ở Mỹ. Ngay bên cạnh chợ Tus
là mấy chung cư (apartment) cao tầng (có thể đến
15 tầng lầu). Từ lúc xuống phi trường, tôi
để ư ở
Bước vào bên trong chợ Tus, dọc
theo hành lang, một bên là quán cà phê, khách
hàng ngồi tràn ra ngoài đường, đủ loại
người ǵa trẻ, thanh niên nam nữ. Đối diện
là một cửa tiệm bán đồ dùng văn pḥng, CD,
DVD, túi xách tay, v.v... Trước
khi vào khu mua bán thực phẩm, có thêm mấy cửa tiệm
bán quần áo phụ nữ, giầy dép, và cel-phone.
Lúc đó khoảng 9 giờ sáng, giờ
làm việc nên ít người đi chợ, bên trong lác
đác vài người. Để cho chắc ăn, tôi
bước lại nơi chỗ có nhân viên an
ninh đang ngồi, hỏi bên trong có nhà băng hay không? (mấy chợ cỡ lớn ở Mỹ có)
Ông ta ngơ ngác, ra dấu không hiểu rồi chỉ tay về phiá một bà cashier. Tôi bước
lại hỏi thăm, bà ta cũng không hiểu, chạy lại
cửa tiệm bán quần áo lôi cô cashier đến nhờ
lo giùm. Cô bán hàng trong cửa tiệm quần áo, trẻ trung
hơn, tóc vàng nói tiếng Anh không giỏi nhưng đủ
hiểu, dắt tôi vào trong tiệm, lấy giấy viết
ra vẽ đường chỉ tôi đi đến khu
thương mại (mall) Omega, trong đó có đủ cửa
tiệm và nhà băng. Tôi đưa cho cô bán hàng số điện
thoại Senada, nhờ gọi giùm để có người
giải thích rơ ràng. Hai người đàn bà trao đổi
đôi câu, rồi cô bán hàng đưa điện thoại
cho tôi nói chuyện... Có lẽ sợ mất
công “đi t́m trẻ lạc”, Senada dặn tôi cứ về
nhà đợi.
Khoảng 1 giờ trưa, đang ngồi
xem TV, có tiếng gơ cửa, Senada cùng mới một người
tài xế khác (kiêm nhân viên an ninh) đến đón
đưa tôi lên trường, có nhiều giấy tờ phải
kư tên. Senada đă mua giùm thẻ điện thoại SIM, cái
cel phone của tôi không c̣n xử dụng được khi
ra khỏi Hoa Kỳ. Khi thay cái SIM mới, điện thoại
vẫn bị “locked”, tôi bấm thử số mật mă
(code) hai ba lần, vẫn không được... đúng lúc
có anh chàng Sead Dajdzic, dậy ESL (sinh ngữ phụ, tiếng
Anh) bước vào. Đă từng tốt nghiệp
đại học ở Mỹ, Sead cho biết, điện
thoại mua ở Hoa Kỳ phải “unlocked” mới dùng
được.
Theo lời dặn, đúng 8 giờ
sáng hôm sau, tôi đi bộ đến trường, gặp
hai bạn đồng nghiệp Hoa Kỳ, họ đến
Tuzla trước tôi vài ngày (trong nhóm tôi là người cuối
cùng đến Tuzla), Dr. Barbara Brown đến từ Eugene,
Oregon dậy Anh Văn, Dr. Kenneth Szulczyk đến từ tiểu
bang Michigan, ông này có gốc rễ từ Kazakhstan (Қазақстан, một quốc
gia mới, lớn hàng thứ 9 trên thế giới, lớn
hơn Tây Âu, tách khỏi Nga Sô), dậy môn Tài Chánh (Finance).
Hôm nay Senada đưa nhóm bốn người chúng tôi đến
một bệnh viện để khám sức khỏe tổng
quát, theo luật pháp
Đến bệnh viện (tất
cả đều là bệnh viện công), tôi gặp người
thứ tư, Dr. David Marsden, người Tân Tây Lan (New
Zealand) tốt nghiệp đại học Arizona, Hoa Kỳ,
dậy môn Toán. David thuê một căn apartment gần bệnh
viện, nên đi bộ. Chuyến du hành “bệnh viện”
này cũng mất khoảng 3 giờ đồng hồ,
chúng tôi phải qua nhiều thủ tục: thử máu, thử
nước tiểu, khám mắt, khám tai,
chụp h́nh phổi... Qua mỗi chặng,
chúng tôi phải ngồi đợi trước cửa cùng
với những bệnh nhân người
Lúc vào khám tim, phải
cởi áo ngoài lẫn áo bên trong, lên giường nằm, rồi
bà y tá lấy bông g̣n thấm nước lạnh lau sơ
qua những chỗ gắn dây điện... Tôi thấy kỳ
cục... thứ nhất, đàn ông con trai Việt Nam trên
người trụi lủi, đàn ông tây phương lông
lá ra tới sau lưng... thứ hai, xứ này lạnh chứ
đâu nóng “văi mỡ” như ở Dallas, Texas, thấm nước
lạnh... làm giật ḿnh. Bà y tá ngồi vào bàn, xem qua giấy
tờ, passport rồi quay sang nh́n tôi... Hoa Kỳ sao lại
có người... trông ngồ ngộ, “không giống ai”!
Chặng chót khám “tâm thần”... mấy
ông ngoại quốc, có điên hay không, sao lại dẫn xác
đến xứ này! Ông bác sĩ già, vui tánh mời
tất cả vào khám một lúc... cho tiện việc sổ
sách. Ông ta cầm hồ sơ từng
người lên, đọc tên điểm danh, coi mặt rồi
cúi xuống ghi chép, kư tên, đóng mộc. Kết thúc phần
khám bệnh tâm thần, ông ta phán một câu nhờ Senada
thông ngôn “Đương nhiên, quư vị thông minh hơn
người, do đó chúng tôi mời sang đây dậy học...
Chúc qúy vị được vui vẻ thỏai
mái trong thời gian ở
Sau khi xong công việc, bọn tôi kéo
nhau vào một quán ăn bên kia đường
ăn trưa. Mọi người vào trước, cứ ăn trước, Senada đưa tôi vào một
nhà băng gần đó để đổi tiền
Ăn xong, mọi
người chia tay, muốn đi dạo phố hoặc ra
về, tùy ư. Senada đưa tôi và “nhà Toán học” David Marsden
đến một cửa tiệm bán cel phone, để mua
v́ cái đem theo bị “locked” không xử dụng được.
Hai ông, một nhà toán học, một điện toán
(computer), như người ngớ ngẩn, có cel phone
cũng như không, hỏi ǵ cũng... thôi mua cái mới
cho... êm chuyện.
Sau đó, tôi có thể về nhà,
nhưng muốn đi theo Senada quay trở
về trường (chẳng phải tôi nghiền... hơi
hám của người đẹp), coi lại giấy tờ,
cái computer nhà trường, những môn học “dành riêng” cho
tôi trong mùa (semester) này, để chuẩn bị. Hai người
gọi taxi đến trường, tôi đưa cho người
tài xế đồng 5KM (đọc là Kam), ông ta thối lại
1KM. Ra khỏi xe, Senada nói với tôi,
người
Khoảng hơn 4
giờ chiều, tôi xắp xếp giấy tờ trên bàn cho
ngăn nắp, đây cũng là thói quen, rồi đi bộ
ra về.
Có tiền
Công việc duy nhất
ở nhà, ngồi xem TV. Cable TV ở
Hồi c̣n ở Việt
Trong lịch sử
nước Cộng Ḥa Czech (Czechoslovakia - Tiệp Khắc),
có một “dấu ấn” của lịch sử gọi là
“Mùa Xuân ở
Câu chuyện “Mùa Xuân ở Prague”
để lại ảnh hưởng đến lịch sử,
văn hóa, âm nhạc, những sách vở, tài liệu của
các văn sĩ người Tiệp như Václav Havel (ông này đang là Tổng
Thống Cộng Ḥa Czech), Karel Husa,
Karel Kryl,
và cuốn tiểu thuyết “The Unbearable Lightness of Being” của văn hào Milan Kundera. Cuốn tiểu
thuyết này đă được quay phim do tài tử
Ăng Lê Daniel Day Lewis, cô đào Pháp Juliette Binoche và cô đào
sexy Thụy Điển Lena Olin đóng.
Trong hai tuần lễ
đầu ở
Thanksgiving Nov. 25th 2010
vđh