Vũ Đ́nh Hiếu
Tên chính thức là Cộng Ḥa
Người
Serbia đến định cư trong vùng Balkans, họ lập
ra một Vương Quốc Trung Cổ (Medieval Kingdom), sau
này trở thành đế quốc Serbia, cực thịnh vào
thế kỷ thứ 14. Đến thế kỷ thứ
16, Serbia bị đế quốc Ottoman xâm chiếm, có lúc bị
người Hapsburg (Áo, Austria) cai trị. Đến đầu
thế kỷ thứ 19, cuộc cách mạng ở Serbia
đưa đẩy Serbia trở thành nước đầu
tiên trong vùng Balkans theo chế độ Quân Chủ Giới
Hạn (Constitutional Monarchy). Sau trận thế chiến thứ
Nhất, Serbia biến mất, xáp nhập vào Nam Tư (Yugoslav
State). Theo thế sự thăng trầm, t́nh h́nh chính trị
trong vùng Balkans, năm 2006, Serbia trở thành một quốc
gia độc lập.
Trong tháng Hai
năm 2008, quốc hội Kosovo, một tỉnh của
Serbia nơi hướng nam, với đa số dân gốc
người Albany tuyên bố độc lập. Chiến
tranh lại xẩy ra, đến bây giờ Serbia vẫn coi
Kosovo là một tỉnh, nhưng dưới quyền cai quản
của Liên Hiệp Quốc.
Serbia có một lịch sử rất xa xưa, khởi
thủy từ nền văn hóa Starcevo, xuất hiện
trong thời đại đồ đá khoảng năm
6200 – 5200 trước công nguyên trong vùng đông nam Âu châu. Tiếp
theo là nền văn hóa Vinca, 5500 – 4500 trước công nguyên,
đă t́m thấy dấu vết ở Belgrade hoặc gần
đó, chế ngự cả vùng Balkans (và cả vùng trung tâm
Âu châu cũng như Tiểu Á - Asia Minor), tổng cộng
khoảng 8500 năm về trước. Vài học giả
cho rằng, những dấu vết nền văn hóa tiền
sử Vinca tượng trưng cho một trong những mẫu
tự (Writing systems) sơ khai nhất của loài người,
có niên kỷ từ 6000 đến 4000 năm trước
công nguyên.
Những dân tộc
sơ khai sống trong vùng Balkans xa xưa như Thracians,
Dacians, Illyrians trước khi đế quốc La Mă (Roma)
xâm lăng vào thế kỷ thứ nhất (1st
century) trước công nguyên. Người Hy Lạp (Greece)
đă nới rộng ảnh hưởng đến khu vực
phiá nam nước Serbia ngày nay vào thế kỷ thứ
tư (4th century) trước công nguyên. Điểm
xa nhất, Hoàng Đế Alexander (Alexander the Great – Hy Lạp)
đặt nền thống trị là thành phố cổ
Kale-Krsevica, nơi phiá nam Serbia. Bộ lạc người
Celtic (Scordisci – di cư đi khắp nơi, đến Ái
Nhĩ Lan - Ireland) đến định cư trong vùng
Balkans khoảng thế kỷ thứ 3 trước công
nguyên, xây dựng nhiều cổ thành như Kalemegdan, có rất
nhiều ở Serbia cũng như trong thành phố cổ
Singidunum, sau này trở thành Belgrade, thủ đô của
Serbia, thành phố lớn nhất trong vùng Balkans. Cho đến
ngày nay, các sử gia tin rằng thành phố lịch sử
Belgrade, từng là thủ đô (lớn nhất) của Âu
châu đă trải qua 140 trận chiến tranh kể từ
thời bị đế quốc La Mă xâm chiếm.
Người La
mă chinh phục một phần đất đai của
Serbia trong thế kỷ thứ 2. Năm 167 trước công
nguyên, người La Mă lập ra tỉnh (province) Illyricum và
phần c̣n lại trung tâm Serbia. Năm 75 trước công
nguyên, họ xây dựng thêm tỉnh Moesia. Các khu vực khác,
Srem, Backa, Banat bị chiếm năm 106 trước công
nguyên sau trận chiến Dacian (Dacian War).
Serbia ngày nay trải rộng, bao gồm nhiều thành phố
cổ từ thời kỳ đế quốc La Mă như:
Moesia, Pannonia, Praevalitana, Dalmatia, Dacia, và Macedonia. Thành phố
Sirmium nơi hướng bắc Serbia là một trong những
thủ đô (họ dời đi tùy theo t́nh h́nh chính trị,
quân sự lúc đó) của đế quốc La Mă. Có tất
cả 17 vị Hoàng Đế La Mă được sinh ra ở
Serbia, chỉ ít hơn ở mẫu quốc Italy. Vị nổi
tiếng nhất sinh ra ở Serbia là Constantine I, cưỡng
bức tôn giáo (Christianity) khắp nơi trong vùng đế
quốc La Mă cai trị.
Khởi thủy
quốc gia Serbia bắt đầu với những làng
định cư người Serbia da trắng (White Serbia)
trong vùng Balkans dưới sự lănh đạo của “Unknown
Archont” (Serbian: Непознати
кнез, Nepoznati knez – Vô Danh - Tên chung do các sử gia đặt). Họ
được đế quốc Byzantine (La Mă) yêu cầu bảo
vệ biên thùy chống lại kẻ xâm lăng người
Avars. Hoàng đế Heraclius cho phép người Serbia (da trắng)
cai trị khu vực Sclavinias, phiá tây vùng Balkans sau khi hoàn
thành nhiệm vụ (chống lại người Avars).
Đến năm 750, một người cháu của “Unknown
Archont”, Hoàng Tử Viseslav thống nhất được
vài lănh thổ, dẫn đến việc thành lập Raska (tên
cũ của Serbia trong thời Trung Cổ - Medieval). Điều
này là cái gai nhọn đối với đế quốc
Byzantine và đế quốc Pháp (Frankish Empire) đang trên
đà lớn mạnh.
Là một nước
chư hầu, lệ thuộc vào đế quốc
Byzantine. Dưới triều đại Vua Vlastimir, người
lập nên triều đại đầu tiên của Serbia (gọi
là Vương Quốc của Vlastimirovic), Raska (tên lúc đó
của Serbia) được độc lập sau khi
đánh đuổi đoàn quân viễn chinh Byzantine và chiến
thắng lớn quân Bulgary vào khoảng năm 850 sau công
nguyên. Việc “Thiên Chúa giáo hóa” (Christianization – Đa số
người Serbia theo đạo Orthordox) người Serbia
được hoàn tất trong ṿng ba năm 867-869, khi Hoàng
Đế Byzantine (La Mă), Basil I đưa tu sĩ vào truyền
giáo, dưới thời Vua Knez Mutimir của Serbia (vị
vua này thuần phục đế quốc Byzantine).
Cũng trong thời
gian này, khu vực phiá tây Serbia nằm dưới ách thống
trị của đế quốc Pháp (Frankish Empire). Triều
đại vua chúa đầu tiên của Serbia chấm dứt
vào năm 960 sau công nguyên. Những trận nội chiến,
tranh giành ngôi báu làm cho Serbia nhập trở lại đế
quốc Byzantine năm 971. Đến năm 1040, khu vực
Duklja nổi loạn, lật đổ sự thống trị
của đế quốc Byzantine và đặt nền cai trị
lên Serbia trong hai thế kỷ 11 và 12. Năm 1077, Duklja trở
thành vương quốc Serbia đầu tiên.
Từ cuối
thế kỷ thứ 12 trở đi, Raska phát triển rộng,
lan ra khu vực Serbia ngày nay. Trong thế kỷ 13, 14, Raska nới
rộng, bao trùm những khu vực khác của người
Serbia. Trong giai đoạn này, Raska lấn về phiá đông
và phiá nam chiếm luôn phần đất Kosovo, phần phía
bắc Macedonia, và mở rộng bờ cơi lên hướng bắc
lần đầu tiên.
Serbia tự
xưng đế quốc (Serbia Empire) dưới thời
Vua Stefan Dusan năm 1346, lúc quốc gia đă phát triển lên
tới mức tột đỉnh về chính trị, quân sự
và văn hóa, trở nên một quốc gia hùng cường
trong lục điạ châu Âu. Vua Dusan ban hành Hiến Pháp (bộ
luật – Dusan’s Code), một hệ thống pháp luật
(đầu tiên) cho cả nước. Khi Vua Dusan chết,
người con là Uros Nejaki (Uros Nejaki – The Weak - Kẻ Mềm
Yếu) lên ngôi. C̣n trẻ và không đủ khả năng nắm
quyền như vua cha, ông ta chứng kiến vương quốc
Serbia do cha trao lại tan vỡ ra từng khu vực tự
trị riêng biệt. Uros mất tháng Mười Hai năm
1371, không có con nối dơi, sau khi quân đội Serbia bị
người Thổ (Turks) đánh bại trong trận Maritsa
(battle of Maritsa) trước đó trong cùng năm.
Các triều
đại kế tiếp Mrnjavcevic, Lazarevic, và Brankovic tiếp
theo, cai trị phần đất Serbia trong hai thế kỷ
15, 16. Trong thời gian trên có nhiều xung đột, chiến
tranh giữa đế quốc Ottoman (người Thổ -
Turks) và các khu vực tự trị người Serbia. Sau khi
thành phố Constantinople (Greek: Κωνσταντινούπολις, Latin: Constantinopolis, Turkish: Istanbul) (thủ đô của đế quốc La Mă, đế
quốc Byzantine và đế quốc Ottoman) rơi vào tay
người Thổ (Turks) năm 1453. Thành phố Belgrade bị
bao vây, Despotate là khu vực cuối cùng của người
Serbia cũng đầu hàng năm 1459, khi thủ đô (trung
tâm) Smederevo của Despotate bị bao vây. Sau khi đẩy lui
các trận tấn công của đế quốc Ottoman
hơn 70 năm, thành phố Belgrade thất thủ năm
1521.
Khi người
Thổ (Turks) chiếm được Serbia, họ ép buộc
theo đạo Hồi (Islam), nhất là khu vực phiá tây nam
Raska, Kosovo, và phiá nam Bosnia. Về phiá nam, Cộng Ḥa Venice
(Republic of Venice – Austria) lấn chiếm những khu vực
dọc theo bờ biển.
Sau khi đất
nước bị mất vào tay Vương Quốc Hungary
(Kingdom of Hungary), rồi Đế Quốc Ottoman (Ottoman
Empire), Serbia giành được độc lập một
thời gian ngắn dưới thời vua Jovan Nenad trong thế
kỷ 16. Ba cuộc tấn công xâm lăng của người
Áo, những cuộc nổi dậy như của Banat (Banat
Uprising) gây khó khăn cho đế quốc Ottoman. Khu vực
Vojvodina chịu ách thống trị của đế quốc
Ottoman một thế kỷ, sau đó sát nhập vào đế
quốc Habsburg (Áo) trong thế kỷ 17, 18 qua hiệp ước
Karlowitz (Karlowitz Treaty). Sống dưới sự cai trị
của Habsburg dễ thở hơn, người Serbia di
cư gần hết ra khỏi Kosovo và những khu vực
Serbia khác, đến Vojvodina. Người Thổ (Turks) dùng
biện pháp tàn bạo ép buộc người Serbia theo đạo
Hồi.
Những cố
gắng giành độc lập cho cho quốc gia, dân tộc
xẩy ra lần đầu trong cuộc Cách Mạng Quốc
Gia Serbia (Serbia National Revolution) từ năm 1804 đến
năm 1815. Chiến tranh giải phóng (Liberation War), theo sau là
thời gian t́m kiếm giải pháp, thương thuyết,
cuối cùng chấm dứt vào năm 1835. Lần đầu
tiên trong lịch sử Ottoman, toàn thể người Christian
Serbia đứng lên chống lại Sultan (Hoàng Đế
Ottoman - người có sức mạnh, uy quyền, cai trị
- Arabic: سلطان Sulṭān.). Người Pháp chiếm đóng vùng
phiá tây Balkans, gây khó khăn cho đế quốc Ottoman, thêm
vào sự tranh giành quyền hành giữa hai đế quốc
Áo – Nga Sô trong vùng Balkans, đă thúc đẩy dân Serbia nổi
dậy chiến đấu giành độc lập.
Trong trận chiến Balkans (1912 –
1913), Vương Quốc Serbia (Kingdom of Serbia), nới rộng
đất đai ra gấp ba lần, lấy một phần
của Macedonia, Kosovo và gom lại những khu vực có
người Serbia định cư.
Ngày 28 tháng Sáu năm 1914, vụ ám sát
Thái Tử nước Áo (Austria) Frank Ferdinand tại Sarajevo,
Bosnia Herzegovina gây chấn động Âu châu. Thủ phạm
là Gavrilo Princip, gốc người Nam Tư (Yugoslav), hội
viên Người Trẻ Bosnia (Young Bosnian), quốc tịch
Áo. Viện lư do này, đế quốc Áo-Hung tuyên chiến với
Serbia. Người Nga đứng về phiá Serbia tổng
động viên, và người Đức nhập cuộc,
tuyên chiến với Nga Sô, bắt đầu trận thế
chiến thứ Nhất. Tổng kết, quân đội
Serbia mất 400 ngàn quân, khoảng 58% tổng số quân
trước khi trận thế chiến xẩy ra.
Trong trận thế chiến thứ
Hai (1939-1945), năm 1941 chính quyền Nam Tư (Yugoslav) cố
gắng làm vừa ḷng phe Trục (Axis: Nhật, ư, Đức).
Quốc Xă (Nazi) Đức, Phát Xít (Fascist) Ư, và đồng
minh phe Trục (Hungary) vào xâm chiếm Serbia. Một năm
sau khi người Đức xâm chiếm Serbia, khoảng 16
ngàn người Do Thái-Serbia bị giết (90% tổng số
người Do Thái ở Serbia). Sự liên hệ giữa
người Serbia và Croatia qua ngàn năm tan vỡ trong trận
thế chiến thứ Hai. Chính quyền bù nh́n Croatia dưới
thời Đức chiếm đóng, thẳng tay tiêu diệt
người Serbia.
Sau khi trận thế chiến thứ
Hai kết thúc, Hoàng Gia Serbia bị cấm không được
quay trở về quê hương, đánh dấu một thay
đổi lớn. Đảng cộng sản lên nắm
quyền, biến Nam Tư (Yugoslav) trở nên một nước
xă hội chủ nghiă Cộng Ḥa Xă Hội Liên Bang Nam Tư
(Socialist Federal Republic of Yugoslavia).
Thống Chế Tito lănh đạo
Nam Tư tách khỏi “quỹ đạo” của Nga Sô
năm 1950. Năm 1980, ông ta mất gây nên xáo trộn, rạn
nứt trong quốc gia. Slobodan Milosevic lên nắm quyền
năm 1989 trong đảng Cộng Sản Serbia (League of
Communists of Serbia), sau nhiều vụ thanh trừng, hạ bệ
trong chính quyền. Milosevic hứa hẹn sẽ cắt giảm
quyền hạn khu vực Kosovo (đa số dân gốc
người Albany), Vojvodina. Điều này gây căng thẳng
giữa các lănh tụ trong liên bang Nam Tư (Yugoslavia),
đưa đến việc thành lập các quốc gia:
Slovenia, Croatia, Bosnia Herzegovina, và Macedonia, tách ra khỏi Nam
Tư, tuyên bố độc lập. (Montenegro, Kosovo theo
sau).
Khủng hoảng chính trị
đưa đến sự căng thẳng giữa người
Serbia và các sắc dân khác trong nước cộng sản
cũ Nam Tư. Người Serbia lo ngại, chính quyền
“Quốc Gia, Ly Khai” (Nationalists, Separatists) ở Croatia sẽ
tách ra. Họ cũng khép tội chính quyền “Ly Khai” ở
Bosnia Herzegovina bị nhóm người “Truyền Thống” Hồi
giáo xúi dục (Islam Fundamentalists). Hai chính quyền Croatia và
Bosnia tố cáo ngược lại, cho rằng người
Serbia định thiết lập một nước Serbia nới
rộng (Greater Serbia). Điều này làm cho các dân tộc (sắc
dân ở Nam Tư cũ) thù ghét nhau thêm.
Năm 1992, chính quyền Serbia và
Montenegro đồng ư thành lập một Cộng Ḥa Liên Bang
Yugoslavia (Federal Republic of Yugoslavia). Liên Hiệp Quốc cho rằng
chính quyền này (Liên Bang Nam Tư) yểm trợ tài chánh,
vũ khí cho nhóm người Serbia đang sống ở
Croatia và Bosnia để gây chiến tranh nên ban hành “Cấm Vận”
trong những năm 1990. Cộng Ḥa Liên Bang Nam Tư bị
cô lập trên chính trường quốc tế, nền kinh tế
xuống dốc, khủng hoảng tiền tệ, mức sống
của người dân Serbia trở nên khó khăn.
Slobodan Milosevic (Слободан Милошевић) đại diện
người Serbia sống ở Bosnia tại hiệp định
Dayton (Dayton Peace Agreement) năm 1995, kư kết bản hiệp
định chấm dứt trận chiến Bosnia (Bosnian
War). Theo bản hiệp định, nội bộ quốc
gia Bosnia Herzegovina sẽ chia ra hai khu vực: khu Cộng Ḥa
Serbia (Republika Sprska), và khu vực Liên Bang Bosnia Croatia
(Bosnian-Croat Federation).
Khi đảng Xă Hội (Socialist
Party) đang cầm quyền ở Serbia không công nhận kết
qủa cuộc bầu cử (đa đảng) năm
1997, gây xáo trộn t́nh h́nh chính trị trong nội bộ quốc
gia. Trong năm 1998-1999, Kosovo tuyên bố độc lập,
xử dụng Đội Quân Giải Phóng Kosovo (Kosovo
Liberation Army) chống lại Lực Lượng An Ninh, Quốc
Pḥng Nam Tư (Serbia – Yugoslavia). Cuối cùng Liên Hiệp Quốc
cũng phải đưa quân vào can thiệp trận chiến
Kosovo (Kosovo War).
Slobodan Milosevic (20/8/1941 – 11/3/2006). Tổng Thống Serbia, Nam Tư (Yugoslavia) từ năm 1989 – 1997,
Tổng Thống Cộng Ḥa Liên Bang Nam Tư (Federation Republic
of Yugoslavia) 1997 – 2000. Ông ta bị Ṭa Án Quốc Tế truy tố
về tội ác chiến tranh trong trận chiến Bosnia và
Kosovo. Milosevic tự biện hộ cho ông ta trong phiên ṭa kéo
dài 5 năm, kết thúc khi ông ta chết trong tù năm 2006.
Trong tháng Chín năm 2000, các đảng
phái chính trị đối lập cho rằng Milosevic
thường gian lận trong các cuộc bầu cử.
Dược sự hỗ trợ của toàn dân, xuống
đường biểu t́nh, Molosevic phải ra đi, trao
quyền hành cho đảng chính trị mới thành lập
Dân Chủ Đối Lập Serbia (Democratic Opposition of Serbia
- Demokratska Opozicija Srbije). T́nh h́nh chính trị ở Serbia vẫn
căng thẳng, cựu lănh tụ Milosevic bị truy tố
ra trước Ṭa Án Quốc Tế về các cuộc tàn sát
tập thể trong trận chiến ở Croatia, Bosnia
Herzegovina và Kosovo. Năm 2003, Thủ Tướng Zoran
Đinđíc bị ám sát chết! Hôm 21 tháng Năm 2006, quốc
hội Montenegro bỏ phiếu tách khỏi Liên Bang Nam
Tư, tuyên bố độc lập (Chuyện Kosovo và
Montenegro đến ngày nay vẫn... chưa êm thấm).
Ngày 5 tháng Sáu năm 2006, quốc hội
Serbia tuyên bố tên quốc gia là Cộng Ḥa Serbia (Republic of
Serbia), vị Tổng Thống đương nhiệm là
Boris Tadic. Bảng thống kê tháng Giêng năm 2010 cho thấy,
dân số Serbia là 7,306,677 người, người Serbia chiếm
83%, nhóm thiểu số đông nhất là người Hungary
khoảng 290,000 người, số c̣n lại là Croatia,
Bosnia, Romany, ...
Belgrade (Serbian: Београд, Beograd) là thành phố lớn nhất
ở Serbia. Nơi gặp gỡ giữa hai gịng sông Sava và
Danube, giao điểm giữa b́nh nguyên Pannonian và vùng Balkans.
Theo bảng thống kê năm 2007, Belgrade có 1,630,000 dân, thành
phố lớn thứ tư trong vùng đông nam Âu châu, chỉ
thua Istanbul (Turkey), Athens (Hy Lạp), và Bucharest (Romania).
Khu vực
phụ cận
Các bộ
lạc người
Information
Technology Dept.
vđh