Hoàng Minh Thúy
Tháng qua có người bạn
về Nha Trang (VN) thăm nhà, khi trở lại
Tôi chắc độc giả
không mấy người được dịp nếm qua
món nầy, v́ nó thuộc thổ sản địa
phương mà ngay chính tôi trước năm 1975 cũng
không được ăn.
Thường thường
những món bánh tráng để ăn chơi, chúng ta chỉ
thấy bánh tráng làm bằng bột gạo có rắc mè, khi
ăn phải nướng lên (người Bắc gọi
là bánh đa), có bánh tráng ép chuối từng lát trên mặt
để ăn sống, có bánh tráng gạo trộn với
nước cốt dừa khi nướng lên thơm
phức, có bánh tráng phồng làm bằng bột nếp
để gói xôi, nhưng chưa thấy bánh tráng xoài
xuất hiện trước năm 1975.
Tôi nghĩ thầm, có lẽ
sau cuộc đổi đời của tháng Tư đen
tối, những người dân địa phương
trong hoàn cảnh túng cùng (cơm c̣n phải độn thêm
khoai sắn, tiền đâu mà mua xoài ăn chơi), họ
đă nghĩ ra một món ăn chơi mới để có
thể tiêu thụ cả một rừng xoài thuộc các vùng
Cam Phúc, Cam Ḥa. Địa danh nầy toàn là đất cát
trắng pha đất thịt, nằm giữa thành phố
Nha Trang và thị xả Cam Ranh. Giống xoài trồng nơi
đây trái không lớn, h́nh dáng trông giống loại xoài G̣n
ở trong miền
Xoài trồng ở vùng Cam Ḥa,
Cam Phúc (cách cảng Cam Ranh khoảng 20 cây số và Nha Trang 30
cây số), trái tṛn, to bằng cái chén ăn cơm, hột to
nhưng có mũ khi c̣n xanh, nếu ta muốn ăn sống
chấm nước mắm đường. Lúc chín, xoài có
mùi thơm, thịt nhiều sớ, tuy ngọt nhưng khi
cắt ra nó chảy nước.
Trước năm 1975,
bạn hàng đến mua măo ở các vườn rồi
chở ra bán lại cho các bạn hàng lẽ tại chợ
Đầm (Nha Trang), hoặc chở ra Ba Ng̣i (Cam Ranh).
Lần đầu tiên nh́n
thấy bánh tráng xoài, tôi ngồi suy đoán. Có lẽ sau
năm 1975, trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thiếu
thốn xăng dầu di chuyển nên những nhà
vườn trồng xoài đă nghĩ ra món bánh tráng nầy,
để người ta có thể ăn dần, hoặc có
thể mang đi xa bán chăng? Xoài có lẽ được
xoay nát, trộn chung với bột gạo, đổ vào
khuôn hấp chín rồi đem phơi nắng cho thật
khô. Thoạt nh́n h́nh thức của cái bánh tráng, thấy
không có ǵ hấp dẫn mời gọi, chỉ thấy
một màu vàng chóẹ dầy cui như một miếng da
ḅ, chỗ đậm, chỗ lợt. Bánh to bằng một
cái mâm nhỏ, nặng khoảng 300 gram. Khi ăn xé ra
miếng nhỏ, cuốn tṛn lại rồi đưa vào
miệng nhai chầm chậm, sẽ ngửi thấy mùi xoài
chín thơm thoang thoảng và vị chua chua ngọt ngọt
thấm dần trong đầu lưỡi, ăn hoài không
thấy chán.
Tôi nhâm nhi năm cái bánh tráng
nầy trong suốt hai tuần lễ vào nửa đêm khi
rời khỏi máy điện toán, v́ hai chén cơm chiều
đă tan loăng trong dạ dầy. Miếng bánh tráng xoài
của người bạn từ Nha Trang mang về,
khiến tôi nhớ đến bánh tráng khoai ḿ, bánh tráng
chuối và nhiều kỷ niệm của một nơi
chốn đă từng đặt chân trong một quảng
đời hoạn nạn sau năm 1975.
Xin hầu kể bạn
đọc như một tâm sự xẻ chia.
* * *
Sau năm 1975, tôi bỏ Sàig̣n chạy
về một xă nhỏ gần hải cảng Cam Ranh (cách
thị xă Nha Trang chừng 30 cây số), v́ sợ phải
đi “học tập”, khi nghe tiếng loa kêu vang trên hệ
thống phóng thanh; tất cả quân nhân, viên chức
của chánh thể VNCH cũng như nhân viên của các
cơ quan Quân Sự (MACV) Dân Sự
Hoa Kỳ (USOM) (USAID) đều phải tŕnh diện.
Một ông làm cơ quan USAID-
Sàig̣n cùng thời với tôi, đă đi tŕnh diện. Ông
khai chi tiết tên họ những nhân viên làm chung và nhà
cửa ở đâu…Cô bạn gái ở kế nhà ông chạy
đến báo cho tôi hay, sau khi thấy năm bảy
người chung Sở, nhận giấy của Công An
Phường mời đi học tập. Cô ta hỏi tôi
phải làm ǵ, tŕnh diện hay trốn? Sau cùng chúng tôi
chọ giải pháp thứ hai. Chồng đi “học
tập”, ḿnh mà đi “học tập” nữa, th́ con dại
giao cho ai coi? Nguyễn thị Bạch
lên xe đ̣ chạy về một quận nhỏ ở miền
Sở dĩ tôi chọn xă Cam
Ḥa là v́ tuy không có điện
nước, nhưng nhà cửa ở đây rất khang
trang, đều là nhà ngói, tường xi măng vững
chắc, dân cư hiền ḥa, đạo đức. Dân
trong làng là người di cư năm 1954, đến
từ các tỉnh Quảng Trị, Hà Tĩnh, Nghệ An.
Họ vào Nam lập nghiệp theo chân Cha xứ. Tất
cả đều theo đạo Công Giáo, mỗi đêm giáo
dân đọc kinh vang rền cả xóm. Trong làng có chợ,
có nhà thờ, có trường tiểu học, có nghĩa
địa. Dân cư sinh sống bằng nghề cào tôm
nếu làm nghề biển, hoặc là nhà vườn (xoài và
dừa), số c̣n lại đi làm cho các cơ quan dân
sự, quân sự Hoa Kỳ tại cảng Cam Ranh hoặc
Nha Trang.
Trước năm 1975, làng rất
yên b́nh. Mờ sáng, xe của các hăng sở Hoa Kỳ từ
Cam Ranh đến tận làng rước dân đi làm, chiều đưa về. Có lẽ
nhờ vậy đời sống dân cư trong làng
đều có mức độ cao, dư ăn dư
để.
Sau khi Cộng sản từ
Bắc vào cưỡng chiếm miền Nam, dân số trong
làng tăng lên v́ sĩ số con, cháu, rể - trước
đây là vợ con lính - đổ về đoàn tụ
với gia đ́nh. Người theo ghe hành nghề chài
lưới, kẻ vác cuốc đào xới sống
đời nông dân. Cuộc sống của họ không yên v́ sau
khi chiếm toàn bộ miền
kêu gọi các viên
chức chế độ cũ mang theo đồ dùng trong sáu tháng để đi học
tập cải tạo. V́ vậy, dân số trong làng có
rất đông phụ nữ, đa số là vợ sĩ
quan, thuở ấy đều san sát tuổi 25 đến
35, chạy về đây tá túc bên Nội, hoặc bên
Ngoại trong khi chồng đi vào nhà tù CS.
Như mọi nơi, chính
quyền CSVN cử cán bộ đến “dạy dỗ”
dân mỗi chiều bằng cách, gom dân trong làng đến
một địa điểm ấn định. Tất cả
mọi người ngồi bệt xuống đất
trong một khoảnh vườn nào đó, để cho anh
hoặc chị cán bộ ngồi chồm hổm trên
ghế cao, dạy chính trị và đường lối sinh
hoạt của người dân phải tuân hành trong chế
độ Cộng Sản. May mắn thay, trong làng đều
có người theo đạo Công Giáo, chống CS tối
đa, nên không có cán bộ nằm vùng trên rừng về điềm
chỉ, bươi móc ai là công nhân viên của chế
độ cũ. Mọi người dân trong xă, che tai,
bịt mắt nhưng dang tay rộng để bảo
bọc cho nhau trong hoàn cảnh khốn cùng.
****
Tôi đến Cam Ḥa vào tháng 8
năm 1975 và gia nhập vào sinh hoạt của làng trong ṿng
tay thân mến của mọi người. Chủ nhật
đi nhà thờ thấy Cha xứ cai quản giáo phận
như tinh thần của người cha già trong một gia
đ́nh. Ông sẳn sàng gọi tên từng người ra
trước bục thánh để quở mắng
chuyện anh giáo dân nầy lỡ tay đánh vợ, hay la
rầy một số phụ nữ ăn mặc mỏng
manh, hở hang khi vào nhà thờ. Ông cũng sẳn sàng
đập roi lên lưng lũ trẻ con nếu t́nh cờ
bắt gặp chúng đánh lộn ở trường
học, hay trong cuộc chơi trước sân nhà, ông luôn
cố vấn đám phụ nữ trẻ- những người vợ lính
cũ có chồng đi tù cải tạo những lời
khuyên giải ân cần nếu cần phải vấn ư.
Tôi ở cạnh nhà của
một phụ nữ tên Vẽ, dáng thon thả, mặt
mũi cân phân, có đôi mắt rất đẹp. Chị
trạc tuổi tôi, con gái thứ của một gia đ́nh
đông anh chị em. Nhà của chị lớn, rộng và
đẹp nhất nh́ trong làng. Đa số các anh chị em
của Vẽ đều làm sở Mỹ, có hai
người anh là Hạ Sĩ Quan Địa Phương Quân.
Tôi đế ư thấy Vẽ có một đứa con gái
khoảng năm sáu tuổi, lai Mỹ rất xinh. Con bé ngoan
ngoăn theo mẹ đi nhà thờ cuối tuần mặc
những cái áo đầm rất đẹp, trong khi Vẽ
luôn mặc áo dài trắng hoặc đen. Vẽ cởi
mở và hồn nhiên, vui vẻ với mọi người
và rất quí mến tôi. Cả hai chúng tôi trạc tuổi
nhau, nhưng lúc nào Vẽ cũng gọi tôi bằng chị,
xưng em ngọt sớt. Mỗi lần nghe loa phóng thanh kêu
đi học tập chính trị ở cuối làng, Vẽ
qua nhà rủ tôi đi cho có bạn. Mỗi gia đ́nh
phải cử một người tham dự. Tôi gọi
thêm năm bảy chị cùng hoàn cảnh đi cùng, và
cả nhóm tụ họp thành một ṿng tṛn 10 người,
gọi là một Tổ, để ngồi bàn luận và
chia xẻ ư kiến theo ư muốn của tên cán bộ CS
đến giảng dạy.
Những buổi học tập
như vậy kéo dài từ 1 giờ đến 5 giờ
chiều, trong khung cảnh lộ thiên, dưới bóng cây
của một rừng xoài, gió thổi xào xạc. Mọi
người ngồi dưới đất khoanh tay bó
gối. Tên cán bộ ngồi trên ghế, lâu lâu co chân
kiểu nước lụt, ph́ phà điếu thuốc rê
thao thao thuyết giảng. Tôi thấy ai nấy ngó xuống
đất đăm chiêu làm như lắng nghe nhưng
thật ra chẳng ai nghe ǵ hết, v́ các tên nầy nói
như cuốn băng cassette được thâu sẳn
rồi phát ra, lập luận giống hệt như nhau.
Tôi thấy Vẽ nh́n mải miết mấy gốc xoài. có
chùm trái đong đưa, thỉnh thoảng kín đáo nh́n
tôi. Một bữa kia, đề tài của cuộc học
tập và thảo luận là “Mỹ đă gây những
tội ác, những đau khổ ǵ cho đồng bào VN”.
Sau một hồi tŕnh bày, tên cán
bộ ngó lanh quanh một ṿng, thấy Vẽ như không chú
ư vào việc học tập, nên chỉ vào Vẽ mà lên
giọng:
-Chị kia! Chị kể
một thí dụ về tội ác của những tên
giặc Mỹ.
Có lẽ quanh năm ở trong
ngôi làng nhỏ không biết ǵ về thế giới bên
ngoài, có lẽ sức học của một phụ nữ
vừa hết bậc Tiểu Học khiến Vẽ không
thể đan cử một thí dụ nào để nói
dối, có thể v́ Vẽ có chồng là một
người lính Hoa Kỳ và là một người thật
thà, nên Vẽ đứng dậy trả lời gọn
lỏn:
-Tôi thấy người Mỹ
đâu có làm tội ác ǵ đâu!
Tên cán bộ đập bàn,
Vẽ lúng túng tiếp tục diễn tả:
-Từ ngày Mỹ đến
đây, gia đ́nh tôi ai ai cũng có việc làm. Cha mẹ tôi
có được nhà ngói, tường gạch, sân xi măng
..
Mọi người nín thở
nh́n tên cán bộ, nh́n Vẽ. Tên cán bộ hằn học la
lối, nào là Mỹ rải thuốc khai hoang làm đất
hư không trồng trọt được, gây quái thai cho
phụ nữ đang mang thai, Mỹ bắn chết cả
làng Mỹ Lai ..Mọi người nh́n nhau, không ai tin
lời tên cán bộ. Người dân trong làng đều tin
Chúa và tin Cha. Nếu Cha nói đúng th́ đúng. Ḿnh bỏ
xứ sở chạy vào đây cũng v́ CS, th́ làm sao mà tin
CS. Dân trong làng nầy xây nhà ngói hết là nhờ Mỹ, th́
Mỹ làm ǵ có tội ác. Đó là lời của một phụ
nữ lớn tuổi ngồi cạnh tôi th́ thào.
Trên đường về hôm
đó, tôi đi cạnh Vẽ để nghe Vẽ kể
lại câu chuyện hôn nhân của nàng và người lính
trẻ Hoa Kỳ:
-Jack biểu em đi về
nước với ảnh, nhưng em không nỡ bỏ cha
mẹ già, không rời xa gia đ́nh được. Tụi
em làm lễ cưới có Cha sở chứng giám.
Ngày hôm sau, Vẽ mang h́nh
chồng cho tôi xem và tôi tự
nguyện cố vấn cho Vẽ vài câu trả lời
nếu như buổi học kỳ tới, tên cán bộ
vặn vẹo lại câu chuyện tuần rồi. Chúng tôi
thân nhau qua buổi chiều ngồi dưới bóng cây xoài “học
tập chính trị”. T́nh cảm ngày càng thắm thiết, nhờ những buổi trưa
nồng mùa hạ, khi tôi ôm con gái nhỏ, buồn thiu, nh́n
thằng con trai đu đưa cây xoài mà miệng nhấm
nháp mấy trái chùm ruột, nhớ về căn nhà tiện
nghi ở Nha Trang.. Tôi cảm động khi thấy Vẽ
lăng xăng chạy qua, tặng chai nước mắm
nguyên chất do gia đ́nh nàng tự tay làm. Lúc ấy Vẽ
th́ thào:
-Nhà em có ghe đi cào tôm, chắc
có lúc sẽ tính chuyện bỏ nước ra đi
bằng ghe quá chị à.
Tôi nh́n nàng trân trối, v́
chuyện vượt biên bằng thuyền lúc đó chưa
xảy ra rầm rộ như khi có phong trào chánh quyền CS
đưa người Việt gốc Hoa ồ ạt ra
khỏi nước, để chiếm gia sản của
họ một cách hợp pháp mấy năm sau đó.
Những ngày tháng “trốn lánh”
đi học tập của tôi trôi qua hết sức
nặng nề, căng thẳng trong khung cảnh sống
của miền quê, không điện, không nước, không
nhà thương. Giả như hai con bị bệnh th́
chắc cũng giao mạng cho Chúa cho Phật lo mà thôi.
Buổi tối, trải chiếu nằm dưới
đất, tắm rửa th́ ra giếng để mẹ
con cùng kỳ cọ. Ăn uống qua loa cho đầy
bụng, hôm nào trời lạnh quá, đốt bếp than
lên để sưởi.
Hai mươi chín tuổi
đầu, cả đời đi qua sống trong tháp ngà,
biết cái ǵ mà lo cho tṛn bổn phận?
Tháng sau, Vẽ đưa tôi ra
đầm Thủy Triều cách nhà không bao xa để xem
ghe của gia đ́nh. Tôi theo chân nàng, đi qua năm bảy
chục căn nhà chỉ trồng toàn xoài và dừa.
Đường đi quanh co nhưng phong cảnh rất
đẹp. Ḷng tôi lúc đó như tơ ṿ, buồn lo
trăm thứ nên không thảnh thơi mà ngắm cảnh
xem người. Tới bờ đầm, tôi thấy có hàng
chục chiếc ghe lớn, nhỏ bỏ neo, cắm sào
đậu san sát trên mặt biển rộng không có sóng.
Nước trong đầm phẳng lặng, nơi đă
nuôi sống hằng trăm gia đ́nh với những
mẻ tôm lớn nhỏ. Con lớn nhất bằng ngón tay
trỏ, con nhỏ nhất th́ như con tép nhảy tanh tách
dưới ánh nắng mặt trời. Tôi nh́n chiếc ghe
nhỏ xíu, tự hỏi làm sao mà vượt biên. Vả lại
cũng chẳng biết chi là biển với sóng, v́ cả
đời chưa bao giờ bước lên ghe một
lần nào nên không dám có ư kiến, chỉ lắng nghe như
sự chia xẻ với bạn. Tôi hỏi:
-Chừng nào mới đi?
Vẽ th́ thầm:
-Đợi ông anh lớn đi
học tập về đă. Anh chỉ là Thượng Sĩ
thôi, nhưng làm ngành An Ninh thành ra phải đi học
tập hơi lâu. Ảnh về là gia đ́nh em đi
liền. Ghe đủ chỗ cho 15 người trong nhà.
Tôi xiết chặt tay bạn
nh́n biển, nh́n trời xanh, nh́n màu xanh của lá. Nắng
trải dài trên mặt biển êm ái của một cái
đầm nhỏ. Nhưng, biển sẽ ra sao ở ngoài
khơi?
Mùa xoài chín đă tới. Năm
đó trong vườn của Vẽ có chục gốc xoài,
Vẽ không bán măo cho bạn hàng vô hái sạch cây như
mọi năm, mà mướn người hái, rồi gánh ra
chợ bán. Tôi đi bộ hai tay thong thả, trong khi Vẽ
gánh một gánh nặng kĩu kịt mà vẫn thong dong.
Vẽ bảo:
-Kiếm thêm chút nào hay chút
đó, thời buổi khó khăn quá. Chị có định
làm ǵ không, chứ ngồi ăn như thế nầy núi
cũng lở!
Tôi theo Vẽ ra chợ làng
ngồi quan sát cảnh bán hàng để học hỏi kinh
nghiệm mua bán, v́ cả một đời đi qua
chỉ quần áo lượt là, sáng xách ô đi, tối xách
ô về, bận rộn với con số và chữ nghĩa,
chưa bao giờ biết gồng gánh mua bán giữa chợ
đông.
Mùa xoài hết, đă
bước sang năm 1976, các bà vợ sĩ quan trong làng
bắt đầu luống cuống, v́ chồng vẫn
chưa về trong khi nghe lệnh rằng
chỉ mang đồ dùng đủ 6 tháng mà thôi.
Mấy tháng sau lại nghe tin mấy ông sĩ quan bị
đưa ra Bắc! Thế là ai nấy thu vén, lo bắt tay
kiếm sống nuôi con, chờ nghe lệnh cho phép đi
thăm nuôi tiếp tế cho chồng.
Lúc nầy chính quyền
địa phương đă thôi bắt dân tụ tập
học tâp chính trị v́ mải lo bắt đồ buôn
lậu, v́ tất cả guồng máy kinh tế đều
tập trung trong tay chính quyền. Cái ǵ cũng lậu:
xăng dầu, than củi, ngũ cốc, rượu trà,
cà phê, thuốc lá, kể cả thịt heo, mỡ dầu
…Các bà trong nhóm vợ sĩ quan lúc đó đều đang
ở tuổi 25-30, con một hai đứa, đều c̣n
nhỏ dại. ..Trong đó có Ninh đeo xe đ̣ ra tận
Cam Ranh mua thúng, rổ về gánh đi bán lẻ.
Chương đi mua heo quanh vùng đưa về Long Khánh
bán. Hà sang một sạp ngồi bán vải trong chợ làng.
Tôi lính quưnh không biết phải mua bán cái ǵ để
đốt thời gian mỗi ngày một dài. Muốn
về nhà cha mẹ ở
Khung
cảnh Cam Ḥa rất đẹp. Khí hậu mát mẻ
bốn mùa. Cả một ngôi làng bao quanh trong màu xanh cây lá.
Nhà nào cũng có dăm bảy cây xoài, hàng chục cây
thanh-long, hai ba cây chùm ruột v́ loại đất nầy
thích hợp với các loại cây kể trên. Họ cũng
có một khoảng vườn để trồng khoai ḿ,
lấy khoai ăn độn với cơm hoặc xay ra làm
bột để bán, lấy hèm nuôi heo. Lúc đó gạo
tự dưng khan hiếm, nghe đồn chính quyền cho
chở hết gạo trong Nam ra Bắc v́ quốc lộ 1
phía sau làng, xe nhà binh chạy ầm ́ suốt ngày đêm,
chở đầy nhóc vật dụng được
phủ bạt che kín. Nhà máy xay khoai ḿ bỗng trở nên
đông khách. Khoai ḿ dễ trồng, cứ chặt hom
từng khúc dài hai gang tay, đừng cho dập mắt rồi
cấm nghiêng xuống đất, không cần phải
tưới nước. Sáu tháng sau nhổ khoai lên. Nếu
đất tốt, khoai cho củ lớn. Đất xấu,
củ ốm nhom dài tḥng. Người ta nhổ khoai lên,
lột vỏ, ngâm nước vài ngày cho sạch mũ, xong
đem đến nhà máy xay nát. Sau đó ngâm bột khoai ḿ
trong nước lạnh, thay nước mỗi ngày cho
đến khi tinh bột lắng đọng trong đáy
thao. Đem bột nầy trải mỏng, phơi khô trên
miếng tôn lợp nhà dưới ánh nắng khoảng
mười ngày. Sau đó cho bột vào túi ny lon đem bán
ở các vùng xa như Long Khánh, Sàig̣n ..Người dân dùng
bột khoai ḿ để nhồi làm bánh thay bột nếp,
trong đó có bánh ít đậu xanh, bánh bột lộc (nhân
tôm thịt). Khi luộc hoặc hấp chín, bột trong khe,
ăn dai dai. Trong miền
Một lần đang ngồi
xem một gia đ́nh ép chuối vào bánh tráng, Vẽ
đến gọi tôi ra bảo:
-Tuần tới hai chị em
ḿnh đi buôn gà. Đi không?
-Buôn gà mà buôn làm sao?
-Đi quanh trong làng nè, mua gà rồi
mang ra Nha Trang bán.
-Ừ! Buôn th́ buôn.
Hôm sau, tôi và Vẽ đi ḷng ṿng
trong làng để t́m mua gà. Dân trong làng đều quen
biết với Vẽ nên họ rất vui vẻ, dễ dăi
trong chuyện mua bán. Vẽ xem lông, xem cẳng, chu miệng
thổi lông, xem hậu môn gà rồi trả giá. Tôi hỏi:
-Thổi làm chi vậy?
-Nếu hậu môn nhỏ, màu
hồng là gà non chưa đẻ, nếu có phân trắng
dính vào là gà bị bịnh.
Vẽ xách cân theo, móc chân gà lên, kéo
cân rất rành nghề, tính tiền. Tôi chỉ việc trao
tiền cho người bán, xách phụ gà vớI Vẽ mang
về nhà.
Trong hai ngày liền, thu mua
được khoảng 30 con gà, nhét đầy trong ba cái
lồng tre, mang về để trên sân xi măng của nhà
Vẽ. Buổi chiều Vẽ bảo:
-Trưa mai xe đ̣ Cam Ranh đi ngang qua làng khoảng
hai giờ trưa, chị ăn cơm xong theo em, mang gà ra
Nha Trang.
Tôi ầm ừ cho Vẽ vui v́
mấy ngày làm bạn với đám gà, mùi hôi của gà làm
cho tôi lợm giọng, tôi muốn bỏ cuộc mà không dám
nói, sợ Vẽ buồn.
*****
Buổi trưa nắng chang
chang, cho hai con ăn uống no nê, dặn ḍ đủ
điều rồi đi qua nhà của Vẽ, ḷng nặng
như khối đá v́ chưa từng bỏ con ở nhà
cả ngày!
Hai chị em ́ ạch kéo ba
lồng tre đựng gà ra ngă ba đường cái,
đứng chờ xe đ̣. Mặc cho Vẽ c̣ cưa
trả giá tiền công phí chở ba lồng gà với
bầy gà kêu ỏm tỏi, tôi đăm chiêu ngắm
mấy trái xoài non ḷng tḥng đong đưa, nghĩ
đến cuộc đổi đời bi thảm,
buồn da diết trong ḷng. Tôi muốn trở vào khi nghĩ
đến hai đứa con đang ngồi chơi không có
.. Mẹ! Đứa con trai 8 tuổi, đứa con gái lên 2.
Mặc dù dặn thằng con trai đừng cho em
đến gần cái Giếng, nhưng ḷng cứ vẫn
vơ lo sợ, v́ tuổi nó quá nhỏ, có biết ǵ đâu
nếu như em gái nó té xuống giếng!! Nghĩ tới,
nghĩ lui, tôi muốn quay về nhà, nhưng không nỡ ḷng
bỏ bạn với mấy cái lồng gà giữa nắng
trưa đốt cháy da mặt.
Tôi mua hai cái bánh tráng chuối
nướng, leo lên xe, chia hai rồi hai chị em ngồi
nhai. Chuyến xe đ̣ giữa trưa vắng vẽ, không
đông hành khách nên rộng răi thoải mái, nhưng v́
xăng khan hiếm mắc mỏ, nên tài xế phải pha
thêm dầu hôi, thành thử ống khói phun ra đen thui,
khiến mặt mày hành khách lem luốt, nhất là ở hai
lỗ mũi.
Một tiếng đồng
hồ sau th́ xe vào bến Nha Trang. Bạn hàng bu quanh c̣ kè
trả giá. Họ trả đúng giá mua của ḿnh nên Vẽ
không chịu bán. Vẽ phân bua với tôi:
-Đi buôn th́ phải có lời
mới bán.
Tôi cười trừ v́
chẳng biết i tờ ǵ mà cho ư kiến, nên tôi nói:
-Ḿnh th́ sao cũng
được! Tùy ư bồ, v́ bồ quen chuyện mua bán.
Nhưng nửa tiếng sau,
bạn hàng tản lạc đi hết mà chẳng có ai
trả cao hơn để có thể bù lại chút công lao
của hai ngày trời chúng tôi đi mua quanh trong làng. Vẽ
tức tối bảo:
-Bốn giờ chiều họp
chợ. Hai chị em ḿnh đem ra chợ Đầm bán lẻ.
Tôi lạnh cả chân tóc.
Chợ Đầm cách bến xe khoảng hai cây số, làm sao mà
đưa ba cái lồng tre nầy tới đó? Chợ
Đầm cũng là nơi mà năm trước đây, tôi
đi chợ có người lái xe, có cô người làm
đi theo xách giỏ. Tôi bàn với Vẽ:
-Hay bán đại cho rồi,
đi về kẻo tối.
Vẽ dùng dằng:
-Không có lời, lỗ cả
tiền xe từ Cam Lâm ra đây. Ḿnh chịu khó một chút
thôi mà. Trước sau ǵ chiều tối cũng về
tới nhà.
Vẽ đ̣i kêu xe ba bánh gắn
máy, chất ba lồng tre lên rồi ḿnh leo lên xe mà ngồi
chung. Tôi dẫy nẩy đ̣i đi bằng hai chiếc xích
lô cho nó ..lịch sự. Vẽ ch́u ư tôi nhưng nói:
-Đúng là tiểu thơ đi buôn!
Tôi giả vờ không nghe,
gọi ngay xích lô mặc cả. Nửa tiếng
đồng hồ sau, xe tới chợ Đầm. Khung
cảnh đă rộn rịp cho buổi chợ chiều.
Tôi đội nón lá sùm sụp, tóc không xỏa ngang vai óng
ả, mà bới ngược lên đỉnh đầu. Tôi
tiếc là không mang theo chiếc kính đen đeo mắt
theo, nhưng nghĩ lại, có bà nào đi buôn gà mà đeo
kính thời trang không?
Vẽ
đặt ba cái lồng tre giữa một khoảng
đất trống, gỡ nón lá xuống quạt lấy quạt
để cho khô những giọt mồi hôi lấm tấm
trên màu da rám hồng xinh đẹp. Tôi có cảm thấy
nóng nhưng không dám mở nón lá ra quạt, v́ sợ
..gặp người quen. Chỗ nầy là chợ bán
lẽ nên không có bạn hàng mua sĩ. Những người
mua sĩ họ mua ngay bến xe, nên chỉ mấy phút sau là
có người xách giỏ đi chợ ngừng lại,
hỏi mua gà. Tôi luống cuống nói với Vẽ - mà tôi chắc
rằng Vẽ không hiểu nỗi cảm giác của tôi - một
người sa cơ lỡ vận, trở lại nơi
chốn mà năm trước đây ḿnh đă từng xênh
xang áo măo, nay trong hoàn cảnh chua chát của một chị
bán ..gà! Tôi hấp tấp:
-Thôi! Vẽ ở đây bán
được bao nhiêu th́ bán, nhiều hay ít ǵ th́ cũng nên
bán hết cho rồi. Ḿnh lại đằng kia thăm bà
cô, có gian hàng bán trầu cau một chút.
Vẽ đang vui v́ thấy có
người đến mua, thấy tôi dễ dăi trong
chuyện mua bán sao cũng được nên gật
đầu.
Tôi hấp tấp bỏ đi
một khoảng xa, rồi đứng lại. Ḷng ân
hận v́ không chung tay sát cánh với bạn trong việc mua
bán, nhưng tự nhủ ḷng, chiều về nếu
Vẽ có chia tiền lời làm đôi, tôi sẽ không
nhận.
Cả nửa năm dài, tôi ở
ĺ trong cái xă nhỏ, tuy cách Nha Trang không xa, nhưng đâu
hiểu những thay đổi của những sinh
hoạt ngoài phố, đâu biết rằng moi người
đồn nhau rằng chính phủ sẽ đổi
tiền với số lượng đếm trên
đầu người ghi trong Tờ Khai Gia Đ́nh. Dân chỉ
nên lưu giữ đồng hồ Nhật và vàng,
để dễ trao đổi mua bán. Tôi bị chụp tay
bởi một người đàn ông lạ mặt.
-Đồng hồ Seiko hả, bán
không?
Tôi đeo trên tay chiếc
đồng hồ hiệu Seiko có ngày, tháng mà bộ
đội VC rất mê thích gọi là đồng hồ có
hai cửa sổ. Năm 1973 tôi mua với giá 30 ngàn. Tôi
hỏi:
-Mua bao nhiêu?
Người đàn ông vừa
trả lời, vừa nắm cổ tay tôi, săm soi nh́n
cái đồng hồ:
-Nếu thiệt đúng Seiko,
tôi trả cho cô ba chỉ vàng.
Tôi nghĩ ḿnh c̣n một cái
đồng hồ mạ vàng nữa rất đẹp, nên
tôi đi theo anh ta đến cái quầy thuốc lá ở
gần đó, lột đồng hồ đưa cho xem và
nhận ba chỉ vàng không kỳ kèo, v́ thật ra lúc đó
tôi đâu biết giá của nó lên tới năm chỉ vàng.
Người đàn ông trạc 40 tuổi đưa ba
chiếc nhẫn trơn và x́ lửa gaz cho tôi xem để
chứng minh là vàng thật và nhấn mạnh rằng, ông ta
mua bán đàng hoàng. Ông nói:
-Tôi đoán cô là vợ sĩ quan
phải không? Nhà chắc c̣n nhiều đồ đạc
lắm, nên khi nào có cần bán thứ ǵ th́ nhớ
đến đây kiếm tôi. Tôi tên Cường.
À th́ ra là vậy! Ông ta nói như
vậy là v́ đă có nhiều chị em bán đổ bán tháo
đồ đạc trong nhà, để nuôi chồng nuôi
con. Sau nầy khi cần tiền tôi đem bán ba cái nhẫn
mới biết, vàng có pha kim loại khác v́ khi đưa vào
lửa gaz lâu, thấy nó màu xanh chứ không đỏ
rực như vàng nguyên chất 24 kara. Khi bán cho
người, họ hơ lửa sơ thôị chừng
thực sự mua vào th́ họ x́ lửa kỷ hơn
thiếu điều chiếc nhẫn muốn ..chảy
thành nước, để biết vàng tốt vàng xấu,
trả giá khác nhau.
Khi tôi trở lại chỗ
cũ th́ trong lồng chỉ c̣n 10 con gà. Tôi bảo Vẽ:
-Ḿnh vừa bán cái đồng
hồ…
Tôi đưa cổ tay trống
rỗng cho Vẽ xem và nói tiếp:
-Thôi đi về
được rồi, mang mấy con nầy về ăn!
Vẽ mở mắt to nh́n tôi
kêu lên:
-Trời ơi! Bán đồng
hồ rồi hả, uổng vậy?
Tôi trả lời:
-Ăn không cả năm
rồi, phải bán đồ mới có tiền mua gạo
chứ.
Trên đường trở
lại bến xe, tôi gặp bà cô họ, tôi kể chuyện
bán đồng hồ với giá ba chỉ vàng, cô tôi dậm
chân kêu trời rồi bảo:
-Mai mốt mua bán đừng có
ra chợ trời, tụi nó lưu manh tráo vàng thiệt, vàng
giả dễ như không, coi chừng mất của.
Chúng tôi mang gà lên xe đ̣,
trở về làng th́ trời đă tắt nắng. Hai
đứa con tôi lem luốc đang chơi dưới bóng
cây xoài, chạy ù ra mừng rỡ khi thấy mẹ về.
Tôi ôm con, nước mắt ứa, ḷng đau nhói. Tôi
thấy hết sức mệt mỏi sau một ngày
đường nên nói với Vẽ:
-Mang hết gà về bên nhà
Vẽ đi, mai rồi tính.
Vẽ lắc đầu:
-Mai để em mang ra chợ
làng bán, kiếm thêm chút nào đỡ chút đó, chứ hai
đứa ḿnh làm sao ăn hết mười con gà?
Đêm
hôm đó gà chết hai con! Mấy con c̣n lại cũng
lắc la, lắc lẻo không cách chi mà mang ra chợ bán
được, nên trời tờ mờ sáng Vẽ gọi
tôi qua nhà, giọng rối rít:
-Chị qua nhà em ngay, tụi ḿnh
làm thịt, kho tiêu chứ nó bị bịnh ..dịch
rồi.
Hai chị em chôn hai con gà chết,
làm thịt mấy con gà bị bịnh xong, là tôi không
muốn ăn v́ mùi gà bịnh dễ sợ lắm, tanh hôi
vô cùng! Trong làng không có điện, nên làm ǵ có tủ lạnh
mà cất ăn dần. Tôi nói với Vẽ:
-Ḿnh mang về một con thôi,
c̣n lại Vẽ để bên nầy v́ nhà bồ đông
người. Chuyến nầy lỗ nặng, để
ḿnh chịu hết cho.
Vẽ lắc đầu,
nhất định chia đều tiền lỗ cho cả
hai rồi nói:
-Kỳ tới ḿnh đi buôn
củ hành ..Nếu rủi bán không kịp, không hết, th́
nó không hư thúi, nó không bịnh hoạn.
Tôi bật cười và sợ
thịt gà cả năm trời sau chuyến đi buôn
đó. Người con gái quê nầy thật dễ
thương v́ hai tuần sau đó, Vẽ cù rũ:
-Đi! Đi Phan Rang, vô tận
vườn mua củ hành, củ tỏi. Em có bà con ở
đó nên em rành lắm, chị đi với em cho có bạn.
Em thích chị lắm.
Tôi thương Vẽ một
ḿnh cô đơn nên nên tiếp tục sánh vai. Vẽ
đưa cho tôi một số tiền để tôi cất
vào trong lưng gọi là chung vốn. Vẽ bảo tôi may
một cái túi nhỏ để đựng tiền, rồi
cho vào lưng quần, cột lại cho chắc!
Giữa trưa nắng gắt,
nàng rủ tôi ra ngă ba đón xe hàng, mà người ở
miền nầy gọi là xe ba-lua. Chúng tôi ngồi
dưới bóng mát một cây xoài lớn, gió thổi hiu hiu,
chợt trong không gian vắng vẻ, có tiếng gà trưa eo
óc gáy, nghe sao mà buồn thảm quá! Cuộc đời
của chúng tôi không biết sẽ trôi dạt ra sao trong hoàn cảnh
nầy? Đang mơ màng, tôi thấy Vẽ đứng bật
dậy, cầm nón lá chạy ra đường vẫy tíu
tít, th́ ra cô đang ra dấu đón xe ngừng lại. Khi
đó tôi mới biết xe ba-lua là những chiếc xe
tải của chính quyền CS, chở hàng từ Sàigon lên Ban Mê Thuột cho nhà
nước, khi trở về xe không
nên tài xế và lơ xe muốn kiếm thêm tiền,
bằng cách nhận chở heo và hàng hoá cho dân đi buôn trong
các làng, về Long Khánh hoặc Sàig̣n. Hơn nữa đi xe
nầy tiền xe nhẹ hơn là xe đ̣. Vả lại
lúc đó muốn mua vé xe đ̣ giá chính thức phải có
giấy phép đi đường của nhà nước và
phải ra tận bến xe lúc tờ mờ sáng.
Lần đầu tiên trong
đời, tôi leo lên trên thùng của một chiếc xe
vận tải, phải có một người đứng
phía trên kéo tay mới ..nhảy lên được, rồi
ngồi bệt xuống sàn xe, cạnh những sọt tre
đựng heo, đựng gà và người ngồi
lẫn lộn. Xe chạy chậm th́ nhức đầu v́
mùi xăng dầu, xe chạy mau th́ các sinh vật đang
ngồi trong xe lắc qua lại như bà cốt lên
đồng. Nhưng dân đi buôn- toàn là dân đi buôn v́
thời cuộc-nên họ nói với nhau đủ thứ
chuyện lúc mà tin tức khắp nơi đều bị
nhà nước CS bịt kín, vùng nào biết theo vùng đó mà
thôi. V́ thế, nên ḿnh ngồi nghe cũng đỡ thấy
sốt ruột v́ con đường dài; quên mất mùi heo,
mùi gà, mùi mồ hôi nồng nặc. Cũng may là từ
đó ra Phan Rang chỉ độ hai tiếng đồng
hồ nên cũng chưa đến nỗi nào! Thôi th́
muốn học khôn trong đời sống phải chịu
trải qua những hoàn cảnh, nhờ đó mà có kinh
nghiệm. Đă nói là đổi đời mà! Giờ nầy
các ông trong trại tù cải tạo cũng phải gánh
nước, hốt phân!
Chuyến đó, vừa đi
vừa về trong ngày, chúng tôi mua được ba bốn
bao bố củ hành, củ tỏi. Lại đeo xe ba-lua
chở hàng về, nhưng xe chỉ ngừng ở ngă ba,
đường đi vào làng. Tôi đứng canh hàng cho
Vẽ chạy về nhà lấy gióng gánh ra, để gánh
về. Đêm hôm đó, ê ẩm cả châu thân, tôi biết
thế nào là nỗi khổ của người dân lao
động của cuộc sống buôn gánh, bán bưng!
Buổi tối, tôi nằm bên hai đứa con khóc thầm,
không biết ḿnh xoay trở ra sao trong cuộc đời
đổi mới này!
Ngày hôm sau hai chị em, gánh ra
chợ làng bán. Mua một đồng bán giá hai đồng
nhưng vẫn lỗ chổng kềnh. v́ hành tỏi
mỗi ngày một khô đi, nhất là dưới ánh
nắng mặt trời. Mua sĩ một bao cả trăm
kí lô, khi bán lẻ th́ cân từng gram một.
Khi bán ra, cân th́ phải cân giác
cho người mua kẻo tội nghiệp (ai cũng
khổ như ḿnh mà!).
Tôi ra chợ, ngồi bên
Vẽ cho có bạn, tôi chẳng biết kéo cân, chỉ
biết gói hàng giúp cho Vẽ. Thời gian nầy trong làng có
hai gia đ́nh xuống ghe vượt biển đi t́m tự
do. Thoát được hay không chưa biết, chỉ
thấy nhà của họ bị công an khóa chặt và cắm
bảng cấm vào. Một cô dâu, nghe nói là vợ của
một ông Thiếu Úy đă đi học tập, uống
thuốc chuột tự tử v́ đứa con gái 2
tuổi được bà nội cho ăn trái Sa-bô-chê,
bị mắc cái hột trong cuống họng. Bà nội móc
ra cách nào mà cháu bé tắt thở! Người mẹ trẻ
t́m về thiên đường với niềm hy vọng
gặp con gái! Tin nọ, tin kia làm tôi quay quắt như
người lên đồng. Ngày nào cũng thơ thẩn
trong vườn, thấy thời gian sao mà dài quá.
Bán
cả tuần mới xong mấy bao hành tỏi, tôi chia
tiền lỗ với Vẽ và nói:
-Chắc cũng yên ổn
rồi, ḿnh phải về lại Sàig̣n sống, v́ c̣n có cha
mẹ chị em. Chúc Vẽ thành công trong chuyến đi.
Vẽ buồn bả:
-Ghe em chỉ đi trong
đầm thôi, ra biển chắc không đủ sức. Em
phải móc nối kiếm ghe đánh cá ngoài Ba Ng̣i, rồi
gia đ́nh em từ đầm Thủy Triều đi ra, chắc
nhiêu khê lắm.
* * *
Không ngờ đó là lần tôi
gặp Vẽ sau cùng. Bẩy tháng sau, khi tôi trở lại
ngôi làng nhỏ nầy để kiếm Vẽ hỏi về
chuyện vượt biên th́ tôi được dẫn ra
nghĩa địa, lặng người khi nh́n 15 ngôi
mộ sắp hàng dọc, kề bên nhau. Tôi nghe kể
lại: ghe cào của Vẽ ra tới cửa biển, neo
chờ ghe lớn đến rước, th́ gặp sóng
lớn. Ghe lật úp. Toàn bộ người trong ghe
đều chết thảm, xác trôi vào tận Ba Ng̣i.
Được dân báo tin nên Cha xứ đến nhận lănh,
đem về chôn ngay trong nghĩa địa của làng.
Tôi đứng dưới bóng
cây xoài đầy trái đong đưa, nh́n qua nhà của
Vẽ nay đă bị chính quyền niêm phong. Tôi nhớ
lại những ngày dài bó gối ngồi học chính
trị và tiếng Vẽ khúc khích cười. Tôi nhớ làn
da đỏ hồng và đôi mắt xinh đẹp của
người bạn cũ. Tôi nhớ đứa con gái
nhỏ lai Mỹ, lông mi dài cong vút chạy lăng quăng
đón mẹ về, ḷng tôi nát tan. Khung cảnh làng
xưa, hôm nay buồn bả
tiêu điều. Rất
nhiều nhà đóng cửa niêm phong v́ họ không chấp
nhận chế độ CS. Họ đă thoát đến
bờ bến tự do hay đă nằm xuống trên
biển Đông làm mồi cho cá, hay là nạn nhân của bọn
hải tặc?
Sáng sớm hôm sau, tôi một ḿnh
đi băng qua nghĩa địa, cắt
đường để ra Quốc lộ 1 đón xe
về Sàig̣n. Những thánh giá đứng trước
đầu mỗi ngôi mộ, như những cánh tay
buồn bă dang ra, gợi h́nh Chúa bị đóng đinh. Mười
lăm ngôi mộ của gia đ́nh Vẽ vẫn nằm
đó, như hôm qua….
Tôi đi giữa những hàng
mộ chí chập chùng. Trời đầy sương mù,
lạnh buốt. Cát trắng lún dưới mỗi
bước chân. Nước mắt nhạt nḥa, tôi
đến trước mồ của Vẽ, đặt tay
lên bảng gỗ, vuốt ve tên của nàng. Nước
mắt đầm đ́a, tôi đọc một đoạn
kinh, cầu nguyện cho nàng được siêu thoát, khấn
nguyện Vẽ hăy phù trợ cho tôi, cũng như tất
cả các chị em phụ nữ trong làng, có thêm nghị
lực để vượt qua những cảnh khốn
khổ trong cuộc đổi đời./
Hoàng Minh
Thúy (tháng 7, 1995)
(Đă đăng trên báo Xây Dựng số
295, phát hành ngày 5 tháng 8 năm 1995)