Tạp Ghi:
“Ta Chỉ Riêng Ḿnh
Một Tháng Tư”
(thơ
Thanh
Hoàng Minh Thúy
Thắm thoát lại
đến tháng Tư. Cái mốc thời gian gợi bao
nỗi đau thương, tủi nhục của
người Việt lưu vong mỗi khi nhớ
đến tháng Tư năm 1975, nên có người gọi
là “Tháng Tư đen”.
Một nhà văn
nổi tiếng và cũng là nhà thơ, đă hạ bút
để diễn tả nỗi u hoài của ông trong tháng
Tư quốc nạn:
Một
năm người có mười hai tháng.
Ta chỉ riêng ḿnh
một tháng tư
(Thanh
Tháng 4
đến, chắc chắn sẽ gợi nhiều kỷ
niệm, nhất là với các người lính của Quân
Lực Việt Nam Cộng Ḥa, đă tức tủi tan hàng. Kẻ mất
người yêu trong cơn hỗn loạn. Người th́
tan nát gia đ́nh sau tháng năm dài tù tội. Biển cả
hóa nương dâu..
Với tôi, mỗi
khi gần đến ngày Quốc Hận khiến cho tôi
nhớ lại tháng 3, 1975, khi làn sóng dân, quân di tản từ
miền Trung tất tả đổ dồn vào thành phố
Nha Trang. Những trại tạm cư, nhà thờ,
trường học, chùa chiền, đầy những khuôn
mặt ngơ ngác, kèm theo tiếng khóc ai
oán. Người mất cha, kẻ mất chồng,
người băn khoăn về thân phận thân nhân c̣n
kẹt lại ở các tỉnh địa đầu
giới tuyến...
Tôi không có bà con, bè
bạn trong rừng người di tản đó, chỉ có
tấc ḷng quặn thắt của t́nh người, khi
nghĩ đến những phụ nữ cùng lứa với
ḿnh, đang lao đao khốn khổ v́ thảm họa
chiến tranh. Khi đưa tặng họ
những món quà mọn, người không quen nhận
bằng đôi mắt vô hồn. Có ai nghĩ
đến một ngày, họ phải bỏ nhà cửa, xe cộ, ruộng vườn, để
đứng, ngồi la liệt trên các tấm chiếu nylon
ở một nơi đông đúc, hỗn độn
như thế này! Tội nghiệp nhất là các thiếu
phụ trẻ tuổi, bụng to vượt mặt, hay
con c̣n bồng ẳm trên tay. Một tay dắt con, tay kia dắt mẹ, chồng
đang c̣n kẹt ở đơn vị, biệt vô âm tín. cuộc đời cô trôi dạt về
đâu?
Tôi
rời Nha Trang vào tuần lễ thứ 3 của tháng Ba,
1975; về
Khoảng
cách từ cổng trại Phi Long đến nhà không
đầy 3 cây số, tấp nập người di
chuyển. Bươn bả, hấp tấp,
chộn rộn, bàng hoàng, mệt mỏi, kinh sợ.
Rồi tháng 4
đến, nhằm ngày 19 tháng 3, Ất Ngọ, thành phố
Saigon tràn ngập cờ đỏ sao vàng, dân ngơ ngác, quân
hỗn loạn, quần áo Lính vất đầy hai bên đường.
Tháng 5
tới, Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Ḥa bị kêu lên
phường, khóm tŕnh diện. Ở trong xóm,
một sĩ quan Hải Quân treo cổ, nhất quyết
không nộp ḿnh. Một sĩ quan Bộ Binh, cho gia
đ́nh ăn cháo pha thuốc độc
để t́m về bên kia thế giới, nơi không có bóng
cờ máu, mà cả đại gia đ́nh ông đă từ
bỏ năm 1954, trên con đường hải hành gian
khổ từ Bắc vào
Cứ
như thế, cả con đường Trương Minh
Giảng như lên cơn sốt. Đi về đâu,
khi xe tăng của CS đă nằm
ở cổng trại Phi Long (Không Quân) của phi
trường Tân Sơn Nhứt?
Một
số khác đưa gia quyến về vùng ven biển, kiếm
thuyền bỏ nước, v́ nghe tin Đệ Thất
Hạm Đội của Hoa Kỳ vẫn c̣n ở ngoài
khơi. Tin tức loan truyền khắp
nơi về một sự tắm máu sẽ xảy ra.
Nhà nhà kín cửa, nói năng th́ thào, ăn
uống dè sẻn, điện nước không dám xài hoang
phí. Các phụ nữ nhuộm quần áo thành màu
đen. Móng tay dài cắt ngắn,
không c̣n sơn bạc, sơn hồng. Sự
căng thẳng ngày một kéo dài, mỗi khi nghe tiếng
Loa vang hè phố. Sáng sớm nghe Loa,
chiều tối cũng nghe Loa, kêu tên từng người
đến tŕnh diện chánh quyền. Trời
ơi, có ai ngờ
Tôi quay quắt
chạy ra, chạy vào, lanh quanh nh3u con kiến ḅ quanh miệng
chén, tự hỏi ḿnh làm sao “trốn” để khỏi ra
tŕnh diện, khi Loa gọi những ai làm việc cho các
cơ quan Dân Sự cũng như Quân Sự của Hoa
Kỳ, phải ra Phường tŕnh báo.
Những
người chung quanh khu phố của
con đường Trương Minh Giảng này, ai cũng
biết tôi một thời là nhân viên của cơ quan
Viện Trợ Hoa Kỳ (USAID).
***
Rồi
từ đó, chánh quyền mới luân phiên đổi
tiền, để biến người có nhà thành kẻ
không nhà. Người giàu hóa điên, v́
bị tịch thâu tài sản. Công an
khu vực tự do vô ra gia cư của mỗi
người, kiểm soát kín đáo các diễn biến trong
gia đ́nh. Dân chúng Saigon bắt đầu biết Cộng
Sản là ǵ, không phải tịch thu của người
giàu, phân phối cho người nghèo qua lời đồn
đại, mà họ kiếm phương tiện,
để lấy hết, lấy sạch. Ngày ngày dân
Những sự
việc này, ai đă từng kẹt lại sau tháng 4, 1975,
đều không lạ!
Từ
ngày đó, những người yêu, người vợ
của lính, trạc tuổi 30, má hồng phai nhạt,
mặt mũi xác xơ. Họ bới tóc cao, đội nón
lá, tất tả ngược xuôi chợ trời, trên các
tuyến đường xe đ̣,
kiếm tiền nuôi con, thăm chồng, thăm anh em
cật ruột trong lao tù khốn khổ. Các
nhân viên chính quyền, quân nhân VNCH bây giờ thành tù “cải
tạo”. Họ bị chuyển đưa tù trại
này sang trại khác, vất thư
nhắn tin dọc theo đường di chuyển. Mấy bà nhận
được tin, th́ thào, loan báo cho nhau để biết
chỗ mà bới xách, thăm nuôi.
Quay
đi, ngoảnh lại, cực khổ gian truân thắm thoát
cả chục năm, người chồng thân yêu mới
được thả về. Có anh đă nằm xuống,
thân xác gửi cho cây rừng của trại tù heo hút sau
những ngày lao động, thiếu ăn, thiếu
thuốc men....Có anh tự t́m về cơi chết khi nghe
vợ giao con cho ông bà nội, lập gia đ́nh mới.
Cả một bầu trời tang thương phủ
chụp lên đời sống của dân chúng miền
Rồi
người đi đường bộ, kẻ theo đường biển, t́m phương
tiện vượt thoát. Kẻ may mắn ngày nay thành
Việt Kiều! Kẻ bất hạnh làm mồi cho cá, làm
phân bón cho cây rừng trong rừng già Miên-Việt!
Thắm thoát mà
đă mấy chục năm!
***
Khi bạn đọc
cầm số báo này trên tay, thành phố
của chúng ta đang chuẩn bị cho ngày tưởng
niệm Tháng Tư Đen.
Đă hơn ba
mươi năm,
Ngày đó, mỗi
tháng Tư về, nhóm tổ chức Ngày Quốc Hận,
Ngày Quân Lực, bỏ tiền túi ra thực hiện công tác:
treo cờ, thiết lập khán đài, xin giấy phép biểu
t́nh. Thương mại của người Việt
Bạn bè anh giờ này đang
đốt lửa.
Anh ngại ǵ không góp chút củi
khô?
( tác giả?)
Nửa đêm ban
ẩm thực dọn cháo gà, bánh ḿ. Nhiều đêm mưa
rơi tầm tả, khi tan hàng cứ lội mưa mà
chạy ra xe.
Rất cảm động, khi nhiều anh chị
dắt theo con cái (chúng c̣n quá nhỏ lúc
đó), để vui buồn theo đời sống của
cha mẹ. Thời gian này, ai nấy đều cảm
thấy có bổn phận với thân phận người
Lính c̣n ở trong các trại tị nạn Đông Nam Á (chờ
cứu xét định cư), những người lính c̣n
bị giam cầm trong cái gọi là Trại Cảỉ
Tạo từ Nam tới Bắc và thiết tha với các
tổ chức phục quốc của nhiều đảng
phái. Bởi v́, mỗi người trong cuộc sống
mới, đều có chung cảm
nghĩ:
C̣n vương khói súng hằn trong
mắt.
Gạt lệ nh́n nhau hồn xót
xa.
(TQLC Nguyễn Kim
Tiền)
37
năm đi qua, một thế hệ đă trưởng
thành, trở thành những doanh gia, chuyên viên đủ
mọi ngành nghề, góp phần làm phồn thịnh cho
nền kinh tế
Hôm nay, nếu
tổ chức các chương tŕnh của ngày Quốc
Hận, ngày Quân Lực để hâm nóng bầu không khí
cũ, mà không có ca sĩ xa về tăng cường,
đồng hương sẽ không đông đảo v́ phim
bộ Đại Hàn, phim bộ Hồng Kông, đèn màu của
pḥng trà, tiếng nhạc của vũ trường...
vẫn có mănh lực lôi cuốn hơn.
Mấy
năm gần đây, nhờ hệ thống điện
toán ngày càng tân kỳ, giải quyết phần nào sự
khắc khoải của mỗi cá nhân, trong mỗi hoàn
cảnh. Cùng lúc các đài phát thanh, hệ
thống truyền h́nh, báo chí tràn ngập thành phố,
mở mang kiến thức cho khán thính giả. Các bài
viết được dịp phổ biến, nhờ
vậy mà hồi kư của các nhân vật có thẩm
quyền trong chế độ cũ, lần lượt
phơi bày mặt trái của mọi vấn đề, chính
trị lẫn tôn giáo trong cuộc chiến, dẫn
đến biến động tháng Tư đen.
Đọc
xong, càng thêm ngậm ngùi, thương cho thế hệ
tuổi trẻ Việt
* Tháng Tư,
cũng là tháng sinh nhật của tôi. Như thông lệ, tôi
không tổ chức tiệc mừng, mà tự thưởng
cho ḿnh một thời gian riêng tư, để lanh quanh
đi t́m các bài thơ, bài nhạc, với những kỷ
niệm học tṛ một thời gắn bó, có bạn bè,
người yêu đều là Lính. Vừa để mắt
t́m bài trong “Net”, ḷng vẫn vơ nhớ
những kẻ đă hy sinh, những người bạn
học chung lớp, thành kẻ thương tật khi
vừa ra khỏi quân trường.
Họ
đang ở đâu, có c̣n tồn tại sau tháng 4 quốc
nhục?
Tôi t́m thấy
nhiều bài thơ rất hay, của những người
thanh niên trẻ, bỏ tay viết thay tay súng, để
bảo vệ quê hương, vẫn luôn giữ được
tính tính đôn hậu, như
thứ t́nh yêu mơ màng thật dễ thương qua
một bài thơ của tác giả Trần Ngọc Nguyên
Vũ..
Bài thơ mang tên “Giao
Thừa Trông Ánh Hỏa Châu Rơi”, xin chép lại
để chia xẻ cùng bạn đọc:
Ai
về phố núi cao nguyên ấy.
Xin chuyển giùm tôi
một lá thư
Tới ngừơi
con gái buồn-muôn-thuở
Từ độ xa
nhau chẳng giă từ
Em gái xa nhà, tôi lính
trận
Gặp gỡ qua
giây phút ngại ngần
Thị trấn
về đêm heo hút lạnh
Mưa rừng, quán
vắng bỗng thành thân....
Tôi
c̣n bà mẹ bầy em nhỏ.
Em cũng mẹ già,
mấy đứa em
Cũng chiều
tựa cửa ngồi trông đợi
Cũng
mỏi ṃn trông dưới ánh đèn.
Sinh ra thời
loạn nhiều gian khổ
Phận má hồng,
thân lắm bụi trần
Tôi trải
đời trai theo khói lửa
Em giặt ḷng, ṿ nát
tâm can
Em kể chuyện
ḿnh cay đắng quá
Cả đời
chẳng được một lần vui
Thôi th́ vận
nước c̣n trôi nổi
Hăy mỉm
cười thay những ngậm ngùi
Tôi móc hết
tiền lương vừa lănh
Nh́n em xỏa tóc
phủ vai gầy
Nghẹn ngào khoé
mắt rưng rưng lệ
Em nói lời nghe
mưa bóng mây
Mai tôi ra trận,
không cần đến
Em giữ mà may
chiếc áo dài
Sắp đến
tết rồi, về thăm mẹ
Mua quà cho mấy đứa em trai
Rồi đây trên bước đường xuôi
ngược
Em dạt về đâu một kiếp người
Tôi ở tiền đồn ngoài Ben-Het
Giao thừa trông ánh hỏa châu rơi!
Bạn có thấy chăng người lính trẻ của chúng ta quá
sức đôn hậu và dễ thương không, với
lời thơ đơn giản :
«Tôi móc hết tiền
lương vừa lănh», tặng cho cô gái nghèo đang
mở quán mưu sinh để nuôi mẹ già, em dại, v́
anh lính nghĩ rằng, ngày mai anh sẽ ra chiến
trường, biết có c̣n sống mà tiêu xài tháng lương
vừa lănh!
Người lính đó, bây giờ về đâu trong cơi
đời nghiệt ngă? Có phải anh hiển hiện trong
cuộc sống lầm than, cơ cực, qua lời thơ kể chuyện
của nhà văn Mường Giang:
Có lần từ Mỹ về Phan Thiết
Theo bạn nhậu chơi tận Phú Long
Bữa tiệc nhà giàu đầy rượu thịt
Đời vui như cảnh lạc tiên bồng
Đang lúc ngă nghiêng cười ngặt nghẽo
Bỗng ai vừa trổi khúc ly ca
Thêm đàn vọng cổ hờn, than, oán
Năo nuột trời ơi, nước mắt ḥa
Ra ngó, gặp anh người hát dạo
Cụt chân, mù mắt, lết xe lăn
Phong trần, nhuộm bạc đời trai trẻ
Nhưng nét nam nhân vẫn khắc hằn
Mấy chục năm sầu, bao biển lệ
Mà anh vẫn giữ áo hoa rừng
Chiến y chằng chịt trăm lần vá
Bạc phếch, đoạn trường lắm
thảm thương
Anh hát toàn bài chinh chiến cũ
Điệu ru nước mắt, nát tim người
Ḥ, xề, sang, xứ như oà thét
Khiến kẻ vong gia cũng tả tơi.
Tàn tiệc, mỗi người trôi một nẻo
Loạn ly đời thế, mấy ai vui
Tôi về xứ lạ, làm bồi Mỹ
Quên chuyện long đong, khóc lẫn cười
Nhân có bạn từ Phan Thiết tới
Hỏi tin người hát dạo thương binh
Mới hay anh đă ôm đàn chết
Giữa một đêm mưa trước mái đ́nh
Buổi đó v́ đời làm lính trận
Tàn cơn lửa loạn chịu thương đau
Nay trơ nắm đất mồ vô chủ
Định mệnh ǵ đâu quá nghẹn ngào!
(Chuyện Người Thương Binh)
Tháng 4, đọc hai câu:
«Mới hay anh đă ôm đàn chết ».
« Giữa một đêm mưa trước mái đ́nh », ḷng xót xa buồn.
Cô bán quán ngày xưa, nếu qua được cuộc
chiến, nay chắc thành bà nội, bà ngoại. Nếu may
mắn có được gia đ́nh ấm êm, sống trong
hạnh phúc, cô c̣n c̣n nhớ anh lính trẻ đă gặp
trong thành phố buồn, của một thời gian khi cô
lặn lội mưu sinh?
Tháng 4, thành phố Houston bước vào mùa Xuân, ngày
nắng ngày mưa, khi lạnh, khi nóng. Mỗi khi trở
trời, gặp ai cũng than thân thể bời rời,
đau nhức. Bứơc vào tuổi 60, làm sao t́m
được năng lực và thể chất của
tuổi 30? Mỗi lần bệu rệu như vậy, tôi
mong mọi người hăy nghĩ đến các
thương binh ở quê nhà. Vết thương sau gần
40 năm, nhưng vẫn
chưa lành, v́ tâm trạng của một kẻ bị quên
lăng. Trong thân thể hăy c̣n lưu dấu vết của
chiến tranh, c̣n miễng đạn chỗ nọ, chỗ
kia, mỗi khi thời tiết thay đổi, gây nhiều
đau nhức. Họ đang sống trong tăm tối của
cảnh đời thiếu thốn, chờ đợi t́nh
yêu thương của đồng đội cũ, như
sự an ủi sau cùng... Xin bạn đọc hăy rộng
ḷng chia xẻ, góp chút t́nh với anh lính thương
tật, trước khi anh về cơi vĩnh hằng, như
lời một thương phế binh nhận
được 100 đô la từ hải ngoại gửi
về. Anh Thương Phế Binh đă dặn ḍ con, có
nội dung với đại ư như sau:
-Con hăy giữ 100 đô la này, để dành mua cho ba cái
ḥm, để khi chết đi, ba được ấm áp
v́ được nằm trong ṿng tay của t́nh chiến
hữu!
Hoàng
Minh Thúy