Tạp
Ghi:
“Ta Chỉ Riêng Ḿnh
Một Tháng Tư”
(thơ
Thanh
Hoàng Minh Thúy
(Tạp Chí Xây Dựng
– Năm Thứ 33 – Số 834 – Phát hành ngày 2 tháng 4 – 2016
Houston –
Thấm thoát lại đến tháng
Tư. Cái mốc thời gian gợi bao nỗi đau
thương, tủi nhục của người Việt
lưu vong mỗi khi nhớ đến tháng Tư năm
1975, nên có người gọi là “Tháng Tư đen”.
Một nhà văn nổi
tiếng và cũng là nhà thơ, đă hạ bút để diễn
tả nỗi u hoài của ông trong tháng Tư quốc nạn:
Một
năm người có mười hai tháng.
Ta chỉ riêng ḿnh một
tháng tư
(Thanh
Tháng 4
đến, chắc chắn sẽ gợi nhiều kỷ
niệm, nhất là với các người lính của Quân Lực
Việt Nam Cộng Ḥa, đă tức tủi tan hàng. Kẻ mất
người yêu trong cơn hỗn loạn. Người th́
tan nát gia đ́nh sau tháng năm dài tù tội. Biển cả
hóa nương dâu..
Với tôi, mỗi
khi gần đến ngày Quốc Hận khiến cho tôi nhớ
lại tháng 3, 1975, khi làn sóng dân, quân di tản từ miền
Trung tất tả đổ dồn vào thành phố Nha Trang.
Những trại tạm cư, nhà thờ, trường học,
chùa chiền, đầy những khuôn mặt ngơ ngác, kèm theo tiếng
khóc ai oán. Người mất cha, kẻ mất chồng,
người băn khoăn về thân phận thân nhân c̣n kẹt
lại ở các tỉnh địa đầu giới tuyến...
Tôi không có bà con, bè bạn
trong rừng người di tản đó, chỉ có tấc
ḷng quặn thắt của t́nh người, khi nghĩ
đến những phụ nữ cùng lứa với ḿnh,
đang lao đao khốn khổ v́ thảm họa chiến
tranh. Khi đưa tặng họ những món
quà mọn, người không quen nhận bằng đôi mắt
vô hồn. Có ai nghĩ đến một ngày, họ phải
bỏ nhà cửa, xe cộ, ruộng
vườn, để đứng, ngồi la liệt trên
các tấm chiếu nylon ở một nơi đông đúc,
hỗn độn như thế này! Tội nghiệp nhất
là các thiếu phụ trẻ tuổi, bụng to vượt
mặt, hay con c̣n bồng ẳm trên tay. Một
tay dắt con, tay kia dắt mẹ, chồng
đang c̣n kẹt ở đơn vị, biệt vô âm tín. cuộc đời cô trôi dạt về
đâu?
Tôi rời
Nha Trang vào tuần lễ thứ 3 của tháng Ba, 1975; về
Khoảng cách từ
cổng trại Phi Long đến nhà không đầy 3 cây số,
tấp nập người di chuyển. Bươn bả, hấp
tấp, chộn rộn, bàng hoàng, mệt mỏi, kinh sợ.
Rồi tháng 4 đến,
nhằm ngày 19 tháng 3, Ất Ngọ, thành phố Saigon tràn ngập
cờ đỏ sao vàng, dân ngơ ngác, quân hỗn loạn,
quần áo Lính vất đầy hai bên đường.
Tháng 5
tới, Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Ḥa bị kêu lên
phường, khóm tŕnh diện. Ở trong xóm, một
sĩ quan Hải Quân treo cổ, nhất quyết không nộp
ḿnh. Một sĩ quan Bộ Binh, cho gia đ́nh 8 người
ăn cháo pha thuốc độc
để t́m về bên kia thế giới, nơi không có bóng
cờ máu, mà cả đại gia đ́nh ông đă từ bỏ
năm 1954, trên con đường hải hành gian khổ từ
Bắc vào Nam.
Cứ
như thế, cả con đường Trương Minh Giảng
như lên cơn sốt. Đi về đâu, khi xe
tăng của CS đă nằm ở cổng trại Phi Long
(Không Quân) của phi trường Tân Sơn Nhứt?
Một
số khác đưa gia quyến về vùng ven biển, kiếm
thuyền bỏ nước, v́ nghe tin Đệ Thất Hạm
Đội của Hoa Kỳ vẫn c̣n ở ngoài khơi. Tin tức
loan truyền khắp nơi về một sự tắm máu
sẽ xảy ra. Nhà nhà kín cửa, nói năng th́ thào, ăn uống dè sẻn, điện nước
không dám xài hoang phí. Các phụ nữ nhuộm
quần áo thành màu đen. Móng tay dài
cắt ngắn, không c̣n sơn bạc, sơn hồng. Sự căng thẳng ngày một kéo dài, mỗi
khi nghe tiếng Loa vang hè phố. Sáng sớm
nghe Loa, chiều tối cũng nghe Loa, kêu tên từng người
đến tŕnh diện chánh quyền. Trời ơi,
có ai ngờ
Tôi quay quắt chạy ra, chạy
vào, lanh quanh như con kiến ḅ quanh miệng chén, tự hỏi
ḿnh làm sao “trốn” để khỏi ra tŕnh diện, khi Loa
gọi những ai làm việc cho các cơ quan Dân Sự cũng
như Quân Sự của Hoa Kỳ, phải ra Phường
tŕnh báo.
Những người
chung quanh khu phố của con đường
Trương Minh Giảng này, ai cũng biết tôi một thời
là nhân viên của cơ quan Viện Trợ Hoa Kỳ (USAID).
***
Rồi
từ đó, chánh quyền mới luân phiên đổi tiền,
để biến người có nhà thành kẻ không nhà. Người
giàu hóa điên, v́ bị tịch thâu tài sản. Công an khu vực tự do vô ra gia cư của mỗi
người, kín đáo kiểm soát các diễn biến trong
gia đ́nh. Dân chúng Saigon bắt đầu biết Cộng
Sản là ǵ, không phải tịch thu của người
giàu, phân phối cho người nghèo qua lời đồn
đại, mà họ kiếm phương tiện, để
lấy hết, lấy sạch. Ngày ngày dân
Những sự việc này, ai đă từng
kẹt lại sau tháng 4, 1975, đều không lạ!
Từ
ngày đó, những người yêu, người vợ của
lính, trạc tuổi 30, má hồng phai nhạt, mặt mũi
xác xơ. Họ bới tóc cao, đội nón lá, tất tả
ngược xuôi chợ trời, trên các tuyến đường
xe đ̣, kiếm tiền nuôi con, thăm
chồng, thăm anh em cật ruột trong lao tù khốn khổ.
Các nhân viên chính quyền, quân nhân VNCH bây giờ
thành tù “cải tạo”. Họ bị chuyển
đưa tù trại này sang trại khác, vất thư nhắn tin dọc theo
đường di chuyển. Mấy bà nhận được tin, th́ thào, loan
báo cho nhau để biết chỗ mà bới xách, thăm
nuôi.
Quay
đi, ngoảnh lại, cực khổ gian truân thắm
thoát cả chục năm, người chồng thân yêu mới
được thả về. Có anh đă nằm xuống,
thân xác gửi cho cây rừng của trại tù heo hút sau những
ngày lao động, thiếu ăn, thiếu thuốc
men....Có anh tự t́m về cơi chết khi nghe vợ giao con
cho ông bà nội, lập gia đ́nh mới. Cả một bầu
trời tang thương phủ chụp lên đời sống
của dân chúng miền
Rồi người
đi đường bộ, kẻ theo đường biển,
t́m phương tiện vượt thoát. Kẻ may mắn
ngày nay thành Việt Kiều! Kẻ bất hạnh làm mồi
cho cá, làm phân bón cho cây rừng trong rừng già Miên-Việt!
Thắm thoát mà
đă mấy chục năm!
***
(H́nh: Ngày Quốc Hận tại
Khi bạn đọc
cầm số báo này trên tay, thành phố của
chúng ta đang chuẩn bị cho ngày tưởng niệm
Tháng Tư Đen.
Đă hơn bốn mươi năm,
Ngày đó, mỗi
tháng Tư về, nhóm tổ chức Ngày Quốc Hận,
Ngày Quân Lực, bỏ tiền túi ra thực hiện công tác:
treo cờ, thiết lập khán đài, xin giấy phép biểu
t́nh. Thương mại của người Việt
Bạn bè anh giờ
này đang đốt lửa.
Anh
ngại ǵ không góp chút củi khô?
( tác giả?)
Nửa đêm ban ẩm
thực dọn cháo gà, bánh ḿ. Nhiều khi
mưa rơi tầm tả. Ba bốn giờ sáng, khi
tan hàng cứ lội mưa mà chạy ra xe. Rất cảm động, khi nhiều
anh chị dắt theo con cái (chúng c̣n quá nhỏ
lúc đó), để vui buồn theo đời sống của
cha mẹ. Thời gian này, ai nấy đều cảm thấy
có bổn phận với thân phận người Lính c̣n ở
trong các trại tị nạn Đông Nam Á (chờ cứu xét
định cư), thắt thỏm thân phận tủi nhục
của những người lính c̣n bị giam cầm trong
cái gọi là Trại Cảỉ Tạo từ Nam tới Bắc.
Dân lưu lạc tha phương nhiệt t́nh và thiết tha
với các tổ chức phục quốc của nhiều
đảng phái. Bởi v́, mỗi người trong cuộc
sống mới, đều có chung cảm
nghĩ:
C̣n vương khói
súng hằn trong mắt
Gạt
lệ nh́n nhau hồn xót xa.
(TQLC Nguyễn Kim Tiền)
Hôm nay, 41 năm đi qua, một thế hệ con em của chúng ta
đă trưởng thành, trở thành những doanh gia, chuyên
viên đủ mọi ngành nghề, góp phần làm phồn thịnh
cho nền kinh tế
Hôm nay, nếu tổ
chức các chương tŕnh của ngày Quốc Hận, ngày
Quân Lực để hâm nóng bầu không khí cũ, mà không có
ca sĩ xa về tăng cường, đồng
hương sẽ không đông đảo v́ phim bộ Đại
Hàn, phim bộ Hồng Kông, đèn màu của pḥng trà, tiếng
nhạc của vũ trường... vẫn có mănh lực
lôi cuốn hơn.
Mấy
năm gần đây, nhờ hệ thống điện
toán ngày càng tân kỳ, giải quyết phần nào sự khắc
khoải của mỗi cá nhân, trong mỗi hoàn cảnh. Cùng
lúc các đài phát thanh, hệ thống truyền h́nh, báo chí tràn
ngập các thành phố, mở mang kiến thức cho khán
thính giả. Các bài viết của nhiều người,
trong mọi khía cạnh, được dịp phổ biến,
nhờ vậy mà hồi kư của các nhân vật có thẩm
quyền trước năm 1975, lần lượt phơi
bày mặt trái của mọi vấn đề, chính trị
lẫn tôn giáo trong cuộc chiến, dẫn đến biến
động tháng Tư đen.
Đọc
xong, càng thêm ngậm ngùi, thương cho thế hệ tuổi
trẻ Việt
* * *
Tháng Tư, cũng
là tháng sinh nhật của tôi. Như thông lệ, tôi không tổ
chức tiệc mừng, mà tự thưởng cho ḿnh một
thời gian riêng tư, để lanh quanh đi t́m các bài
thơ, bài nhạc, với những kỷ niệm học
tṛ một thời gắn bó, có bạn bè, người yêu
đều là Lính. Vừa để mắt t́m bài trong “Net”,
ḷng vẫn vơ nhớ những kẻ
đă hy sinh, những người bạn học chung lớp,
thành kẻ thương tật khi vừa ra khỏi quân
trường.
Họ
đang ở đâu, có c̣n tồn tại sau tháng 4 quốc
nhục?
Tôi t́m thấy nhiều
bài thơ rất hay, của những người thanh niên
trẻ, bỏ tay súng thay tay viết, để bảo vệ
quê hương, vẫn luôn giữ được tính tính
đôn hậu, như thứ t́nh yêu mơ màng thật dễ
thương qua một bài thơ của tác giả Trần
Ngọc Nguyên Vũ..
Bài thơ mang tên “Giao
Thừa Trông Ánh Hỏa Châu Rơi”, xin chép lại
để chia xẻ cùng bạn đọc:
Ai về
phố núi cao nguyên ấy.
Xin chuyển giùm tôi
một lá thư
Tới ngừơi
con gái buồn-muôn-thuở
Từ độ xa
nhau chẳng giă từ
Em gái xa nhà, tôi lính trận
Gặp gỡ qua
giây phút ngại ngần
Thị trấn về
đêm heo hút lạnh
Mưa rừng, quán
vắng bỗng thành thân....
Tôi
c̣n bà mẹ bầy em nhỏ.
Em cũng mẹ già,
mấy đứa em
Cũng chiều tựa
cửa ngồi trông đợi
Cũng
mỏi ṃn trông dưới ánh đèn.
Sinh ra thời loạn
nhiều gian khổ
Phận má hồng,
thân lắm bụi trần
Tôi trải đời
trai theo khói lửa
Em giặt ḷng, ṿ nát
tâm can
Em kể chuyện
ḿnh cay đắng quá
Cả đời chẳng
được một lần vui
Thôi th́ vận nước
c̣n trôi nổi
Hăy mỉm cười
thay những ngậm ngùi
Tôi móc hết tiền
lương vừa lănh
Nh́n em xỏa tóc phủ
vai gầy
Nghẹn ngào khoé mắt
rưng rưng lệ
Em nói lời nghe
mưa bóng mây
Mai tôi ra trận,
không cần đến
Em giữ mà may chiếc
áo dài
Sắp đến tết
rồi, về thăm mẹ
Mua quà cho mấy
đứa em trai
Rồi đây trên
bước đường xuôi ngược
Em dạt về
đâu một kiếp người
Tôi ở tiền
đồn ngoài Ben-Het
Giao thừa trông ánh
hỏa châu rơi!
Bạn có thấy chăng người
lính trẻ của chúng ta quá sức đôn hậu và dễ
thương không, với lời thơ đơn giản :
“Tôi móc hết tiền
lương vừa lănh”, tặng cho cô gái nghèo đang mở
quán mưu sinh để nuôi mẹ già, em dại, v́ anh lính
nghĩ rằng, ngày mai anh sẽ ra chiến trường,
biết có c̣n sống mà tiêu xài tháng lương vừa lănh!
Người
lính đó, bây giờ về đâu trong cơi đời nghiệt
ngă?
Có phải anh đang hiển hiện trong cuộc sống lầm
than, cơ cực,
qua lời thơ kể chuyện của nhà
văn Mường Giang:
Có lần từ Mỹ
về Phan Thiết
Theo bạn nhậu
chơi tận Phú Long
Bữa tiệc nhà
giàu đầy rượu thịt
Đời vui như cảnh
lạc tiên bồng
Đang lúc ngă nghiêng
cười ngặt nghẽo
Bỗng ai vừa trổi
khúc ly ca
Thêm đàn vọng cổ
hờn, than, oán
Năo nuột trời
ơi, nước mắt ḥa
Ra ngó, gặp anh
người hát dạo
Cụt chân, mù mắt,
lết xe lăn
Phong trần, nhuộm
bạc đời trai trẻ
Nhưng nét nam nhân vẫn khắc hằn
Mấy chục
năm sầu, bao biển lệ
Mà anh vẫn giữ
áo hoa rừng
Chiến y chằng
chịt trăm lần vá
Bạc phếch,
đoạn trường lắm thảm thương
Anh hát toàn bài chinh chiến
cũ
Điệu ru nước mắt, nát tim người
Ḥ, xề, xang, xứ
như oà thét
Khiến
kẻ vong gia cũng tả tơi.
Tàn tiệc, mỗi
người trôi một nẻo
Loạn ly đời
thế, mấy ai vui
Tôi về xứ lạ,
làm bồi Mỹ
Quên chuyện long
đong, khóc lẫn cười
Nhân có bạn từ
Phan Thiết tới
Hỏi tin người
hát dạo thương binh
Mới hay anh đă
ôm đàn chết
Giữa một
đêm mưa trước mái đ́nh
Buổi đó v́
đời làm lính trận
Tàn cơn lửa loạn
chịu thương đau
Nay trơ nắm
đất mồ vô chủ
Định mệnh ǵ
đâu quá nghẹn ngào!
(Chuyện Người
ThươngBinh)
* Tháng 4, đọc
hai câu:
“Mới hay anh
đă ôm đàn chết.
Giữa một
đêm mưa trước mái đ́nh”,
ḷng xót xa buồn.
Cô bán quán ngày
xưa, nếu qua được cuộc chiến, nay chắc
thành bà nội, bà ngoại. Nếu may mắn có được
gia đ́nh ấm êm, sống trong hạnh phúc, cô c̣n c̣n nhớ
anh lính trẻ đă gặp trong thành phố buồn, của
một thời gian khi cô lặn lội mưu sinh?
Tháng 4, thành phố
Xin bạn đọc
hăy rộng ḷng chia xẻ, góp chút t́nh với anh lính
thương tật, trước khi anh về cơi vĩnh hằng,
như lời một thương phế binh nhận
được 100 đô la từ hải ngoại gửi về.
Anh Thương Phế Binh đă dặn ḍ con, có nội dung
với đại ư như sau:
-Con hăy giữ 100 đô la này, để dành
mua cho ba cái ḥm, để khi chết đi, ba được
ấm áp v́ được nằm trong ṿng tay
của t́nh chiến hữu!
Hoàng
Minh Thúy