Trần
Gia Phụng
LỊCH
SỬ PHÁN XÉT
(Tŕnh bày
trong Lễ Tưởng niệm do Hội Cựu Quân Nhân
QLVNCH
Trần Văn
Hương sinh năm 1902 tại làng Long Hồ, quận
Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long.
Tuy gia đ́nh khó khăn, nhưng nhờ học
giỏi, nên sau khi đỗ bằng thành chung
(diplôme d'études primaries supérieures indochinoises) tại
trường Trung học Mỹ Tho, ông ra Hà Nội theo
học trường Cao đẳng Sư phạm. Sauk hi tốt
nghiệp, ông trở về dạy tại Trung học
Mỹ Tho, rồi làm đốc học Tây Ninh năm 1945. Khi Việt Minh (VM) cướp
chính quyền, VM cử ông Hương làm chủ tịch
Ủy ban hành chánh Kháng chiến tỉnh Tây Ninh, nhưng
chỉ trong thời gian ngắn, ông từ chức, không
hợp tác với VM và cũng không hợp tác với
Pháp. Sau đó, Trần Văn
Hương đến Sài G̣n sinh sống, bán thuốc cho
“Pharmacie Kim Quan”, gần chợ Bến Thành. (Tài liệu
của Hứa Hoành)
Sự nghiệp chính trị của
Trần Văn Hương có thể tóm lược như
sau:
-Hai
lần làm đô trưởng Sài G̣n. Lần thứ
nhất ngày 27-10-1954 dưới thời thủ
tướng Ngô Đ́nh Diệm. Lần thứ hai
ngày 9-9-1964 dưới thời thủ tướng
Nguyễn Khánh.
-Hai
lần làm thủ tướng VNCH. Lần thứ
nhất, từ ngày 4-11-1964 đến 27-1-1965, dưới
thời quốc trưởng Phan Khắc Sửu. Lần thứ hai làm
thủ tướng từ ngày 25-5-1968 đến 1-9-1969
dưới thời tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu, trong nền Đệ nhị Cộng ḥa.
-Phó
tổng thống VNCH. Ngày 29-8-1971, Trần Văn Hương ứng
cử phó tổng thống trong liên danh của Nguyễn
Văn Thiệu. Liên danh nầy độc diễn, được
tuyên bố đắc cử ngày 3-10-1971 và nhận chức
ngày 31-10-1971.
-Tổng
thống VNCH. Ngày 21-4-1975,
tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức,
phó tổng thống Trần Văn Hương lên thay theo hiến định.
Khi nhận
chức, tổng thống Trần Văn Hương 73
tuổi. Ông biết t́nh h́nh
đang hết sức khó khăn, hầu như không
giải quyết được, nên tổng thống Thiệu
phải từ chức.
Ngoài ra, tổng thống Hương cũng biết
rằng ông chỉ là con cờ đệm; vai tṛ của ông
chỉ có tính cách tạm thời theo
hiến định, để chuyển giao cho một nhân
vật khác mà lúc đó người ta lầm tưởng là
có thể đứng ra thương thuyết với phía
CSVN. Đó là
đại tướng Dương Văn Minh. V́ vậy, tổng thống
Hương trao quyền cho quốc hội quyết
định việc chọn lựa người thay thế
và tối 27-4-1975, quốc hội quyết định
chọn đại tướng Dương Văn Minh lên
làm quyền tổng thống VNCH.
Cuối cùng, như ai cũng biết, lúc 10 G. 24 phút
sáng 30-4-1975, quyền tổng thống Dương Văn
Minh đọc nhật lệnh cho QĐVNCH buông súng,
ngưng chiến đấu. Thế là hết.
Đúng như Trần Văn
Hương nói trước, sau khi cưỡng chiếm
miền Nam, CSVN bắt giam vô thời hạn, đày ải
hàng triệu quân nhân, công chức lên miền rừng thiêng
nước độc. Riêng
về phần Trần Văn Hương, CSVN sợ dư luận thế
giới, nên đề yên cho ông về sống tại
căn nhà cũ của ông trong một con hẻm trên
đường Phan Thanh Giản, Sài G̣n cho đến khi
từ trần ngày 27-1-1982, nhằm ngày Mồng 3 Tết Nhâm
Tuất, thọ 82 tuổi.
Ngày 30-4-1975 là ngày tang chung
của dân tộc Việt tướng Lê
Văn Hưng, thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam,
thiếu tướng Phạm Văn Phú, chuẩn
tướng Trần Văn Hai.
Đại
tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24-3-1938, học
Trường Thiếu sinh quân Gia Định năm 1951,
rồi Liên trường Vơ khoa Thủ Đức năm
1961. Rời trường
Thủ Đức, chuẩn úy Hồ Ngọc Cẩn
học tiếp khóa huấn luyện Biệt Động
Quân, và về phục vụ tại Tiểu đoàn 42
BĐQ, thăng dần lên trung úy và làm tiểu đoàn phó
TĐ nầy. Lên
đại úy năm 1966, Hồ Ngọc Cẩn
được chuyển đi làm tiểu đoàn
trưởng TĐ 1 Trung đoàn 33, SĐ 21 BB. Sau vụ Tết
Mậu Thân (1968), ông thăng thiếu tá, rồi lên trung tá
năm 1970. Ông
được cử giữ trung đoàn trưởng
TĐ 15, SĐ 9 BB. Trong chức vụ nầy, ông đă hành quân
giải cứu An Lộc năm 1972. Cuối năm 1973,
ông giữ chức tỉnh trưởng kiêm tiểu khu
trưởng Chương Thiện.
Khi đại tướng Dương
Văn Minh ra lệnh buông súng, đại tá Hồ Ngọc
Cẩn vẫn tiếp tục chiến đấu
đến viên đạn cuối cùng tại tiểu khu
Chương Thiện. Ông bị CS bắt và đưa ra xử bắn
tại Sân vận động Cần Thơ ngày 14-8-1975.
Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ sinh ngày 22-8-1933
tại Sơn Tây, Bắc Việt. Năm 1951, ông theo
học khóa 2 Trường Vơ Bị Địa Phương
ở Huế (đóng ở Đập Đá), và tốt
nghiệp với cấp bậc chuẩn úy. Dần dần, ông
thăng lên thiếu tá năm 1965. Sau cuộc tử thủ An
Lộc trong Mùa hè đỏ lửa năm 1972, đại tá
Lê Nguyên Vỹ được cử làm tư lệnh phó
sư đoàn 21 Bộ Binh, dưới quyền chuẩn
tướng Lê Văn Hưng.
Sau đó, đại tá Vỹ
được cử đi tu nghiệp khóa chỉ huy và
tham mưu cao cấp tại tiểu bang
Ngày 30-4-1975, sau khi
nghe nhật lệnh của đại tướng
Dương Văn Minh, quyền tổng thống VNCH, kêu
gọi quân đội buông súng, chuẩn tướng Lê
Nguyên Vỹ ra lệnh cho binh sĩ giải tán. Phần ông, ông dùng
súng tự sát tại sân cờ Bộ Tư Lệnh SĐ 5
BB ở Lai Khê, B́nh Dương.
Chuẩn tướng Lê Văn Hưng sinh ngày 27-3-1933
tại Hóc Môn (Gia Định). Ông tốt nghiệp khóa 5 (khóa V́ Dân) Trường
Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức vào tháng 1-1955. Ông rất nổi
tiếng trên chiến trường đồng lầy
miền tây nam, thăng thiếu tá năm 1966, lên trung tá
năm 1967 và đại tá năm 1968. Năm 1970, ông
được bổ nhiệm là tỉnh trưởng Phong
Dinh (Cần Thơ), rồi tư lệnh Sư đoàn 5 BB
năm 1971.
Năm 1972, Lê
Văn Hưng cương quyết tử thủ tại An
Lộc và cuối cùng đẩy lui cuộc tấn công
của CSVN. Ông được
thăng chuẩn tướng, giữ chức tư
lệnh phó Quân khu III. Năm sau, ông được bổ nhiệm làm
tư lệnh SĐ 21 BB, rồi thăng tư lệnh phó
Quân đoàn IV, dưới quyền thiếu tướng
Nguyễn Khoa
Thiếu
tướng Nguyễn Khoa Nam, nguyên quán làng An Cựu, quận
Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, sinh tại Đà
Nẵng ngày 23-9-1927. Năm 1953, sau khi rời Trường Sĩ quan
Trừ bị Thủ Đức, ông gia nhập binh
chủng Nhảy Dù tháng 10-1953.
Năm 1965,
Nguyễn Khoa
Khi Sài G̣n bị
CSVN tràn ngập, thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam cùng
chuẩn tướng Lê Văn Hưng dự tính lập
pḥng tuyến chống cộng tại miền Tây, nhưng
thất bại. Cuối cùng,
trong lễ phục trắng của QĐVNCH, thiếu
tướng Nguyễn Khoa
Thiếu
tướng Phạm Văn Phú sinh năm 1925, tại Hà Đông,
tốt nghiệp khóa 6 Trường Vơ bị Liên quân Đà
Lạt năm 1953 và gia nhập binh chủng Nhảy Dù. Trong trận Điện Biên
Phủ, ngày 15-4-1954, trung úy Phạm Văn Phú
được thăng đại úy tại mặt
trận.
Sau trận
Điện Biên Phủ, đại úy Phú bị VM cầm tù
và được trao trả sau hiệp định Genève
(20-7-1954). Đại úy Phú
tiếp tục phục vụ trong QĐVNCH. Năm 1962, Phạm Văn Phú
thăng thiếu tá, giữ chức Liên đoàn
trưởng Liên đoàn Quan sát 77 Lực lượng
Đặc biệt. Năm 1964, ông thăng trung tá, giữ chứ tham
mưu trưởng LLĐB.
Hai năm sau, ông thăng đại tá và
chuyển qua là tư lệnh phó Sư đoàn 2 BB, rồi
tư lệnh phó Sư đoàn 1 BB. Năm 1968,
đại tá Phú được cử giữ chức
tư lệnh Biệt khu 44 gồm các tỉnh biên giới
Việt Miên. Năm sau ông được thăng chuẩn
tướng. Năm 1970, ông trở về làm tư lệnh
LLĐB, rồi làm tư lệnh SĐ 1 BB và thăng
thiếu tướng năm 1971. Tháng 11-1974, thiếu
tướng Phạm Văn Phú thay tướng Nguyễn
Văn Toàn giữ chức tư lệnh Quân đoàn II Vùng II
Chiến thuật.
Sau khi Ban Mê
Thuột thất thủ vào tháng 3-1975, ông được
lệnh rút quân từ cao nguyên vầ đồng bằng. Cuộc lui quân
bị thảm bại. Ngày 29-4-1975, thiếu tướng Phú uống
thuốc độc quyên sinh và tuẫn tiết vào trưa
hôm sau.
Chuẩn
tướng Trần Văn Hai sinh năm 1929 tại Cần
Thơ, tốt nghiệp khóa 7 Trường Vơ bị Liên quân
Đà Lạt năm 1951, cấp bậc thiếu úy. Năm 1960,
đại úy Trần Văn Hai được gởi tu
nghiệp khóa Tham mưu cao cấp tại Hoa Kỳ. Năm 1963, ông
được thăng thiếu tá, giữ chức chỉ
huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Dục Mỹ. Năm 1965, ông Hai lên
trung tá và làm tỉnh trưởng Phú Yên.
Sau
biến cố Tết Mậu Thân (1968), Trần Văn Hai
lên đại tá và được cử giữ chức
tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia thay thiếu
tướng Nguyễn Ngọc Loan. Năm 1970, Trần
Văn Hai lên chuẩn tướng và được cử
giữ tư lệnh Biệt khu 44, rồi năm sau, làm
chỉ huy trưởng binh chủng Biệt Động
Quân. Năm
1972, Trần Văn Hai phụ trách tư lệnh phó hành quân
của Quân đoàn II đặc trách biên pḥng. Năm 1973. ông trở thành chỉ huy trưởng Trung
tâm Huấn luyện Lam Sơn kiêm chỉ huy trưởng
Huấn khu Dục Mỹ Quân đoàn II. Năm 1974, ông thay
thế thiếu tướng Nguyễn Khoa
Chiều ngày 30-4-1975, được
lệnh của quyền tổng thống Dương
Văn Minh, chuẩn tướng Trần Văn Hai cho binh
sĩ trở về đời sống dân sự, ông vào
pḥng chỉ huy ở Mỹ Tho, uống độc
dược quyên sinh lúc 5G.
Trên đây là tóm
lược sự nghiệp của tổng thống
Trần Văn Hương và sáu sĩ quan cao cấp đă
tuẫn tiết ngày 30-4-1975.
Thật ra, trong suốt cuộc chiến vừa qua,
không biết bao nhiêu người đă hy sinh v́ lư
tưởng tự do dân chủ.
Ngay trong ngày 30-4-1975, rất
nhiều người đă tuẫn tiết, từ hàng binh
lên tới cấp tướng, mà càng ngày người ta
càng phát hiện, như mới đây vụ ở Quy
Nhơn, ở Huế...
Những vị
nầy đă chọn cái chết, hoặc ở lại
chịu đựng với đồng đội mà không ra
đi khi CS tràn vào, dầu họ có điều kiện
để ra đi. Ví dụ trường hợp tổng thống
Trần Văn Hương.
Trước khi Sài G̣n sụp đổ,
ngày 28-4-1975, đại sứ Pháp cho người mời
tổng thống Hương di tản. Tổng thống Hương
trả lời: “Nếu trời hại,
nước tôi mất, tôi xin thề là sẽ ở lại
đây và mất theo nước ḿnh.”
Sau đó, ngày
29-4-1975, đích thân đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin,
cùng một viên tham vụ sứ quán nói tiếng Pháp,
đến gặp và mời Trần Văn Hương ra
đi. Hai bên nói
chuyện bằng tiếng Pháp. Ông Hương trả lời: “Thưa Ngài Đại sứ, tôi biết t́nh trạng
hiện nay rất là nguy hiểm.
Đă đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ
cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông Đại
sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất
cảm ơn ông Đại sứ. Nhưng tôi đă suy
nghĩ kỹ và dứt khoát ở lại với
nước tôi. Tôi
cũng dư biết rằng Cộng sản vào
được Sài G̣n, bao nhiêu đau khổ, nhục nhă
sẽ trút xuống đầu dân chúng miền
Đó là tư cách
và khẩu khí một tổng thống, một nhà lănh
đạo. Về phía các quân nhân, có lẽ
nhiều người đă đọc những bài
tường thuật về sự tuẫn tiết của
các vị anh hùng nầy. Ở đây, xin nhắc lại những lời
cuối cùng của đại tá Hồ Ngọc Cẩn.
Sau khi chiến
đấu đến viên đạn cuối cùng,
đại tá Hồ Ngọc Cẩn bị bắt tại
bộ chỉ huy tiểu khu Chương Thiện. Ngày14-8-1975, ông bị
CS đưa đi xử tử tại Sân vận
động Cần Thơ.
Trước khi hành h́nh, quân CS hỏi ông có nhận
tội không, th́ đại tá Hồ Ngọc Cẩn trả
lời như sau: “Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ
không kết án các anh như các anh kết
án tôi. Tôi cũng
không hạ nhục các anh như ác anh bôi lọ tôi. Tôi cũng không
hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự
do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Các anh không có ai có
quyền kết tội tôi.
Lịch sử sẽ phán xét các anh là giặc
đỏ hay tôi là ngụy. Các
anh muốn giết tôi, các anh cứ giết đi. Không cần phải
bịt mắt.” Sau đó, đại tá Hồ
Ngọc Cẩn hô lớn: “Đả
đảo cộng sản! Việt
Tưởng
niệm những anh hùng đă tuẫn tiết ngày 30-4-1975,
cũng là cơ hội cho chúng ta ôn lại lịch sử
những ngày tháng đen tối trên đất nước
chúng ta. Chế độ chúng
ta sụp đổ không phải v́ lănh đạo hay v́ quân
đội chúng ta bất lực hay bất tài như
nhiều người đổ lỗi. Phải công b́nh mà
thấy rơ rằng, sau khi người Mỹ và Đồng
minh rút quân vào năm 1972, quân đội VNCH đơn
độc chiến đấu chống CSVN rất hữu
hiệu trong các năm 1972, 1973, 1974 nhờ lúc đó hỏa
lực c̣n đầy đủ.
Chỉ khi bị cắt viện trợ,
thiếu đạn dược, quân đội VNCH mới
bắt đầu lúng túng và thất thế.
Có thể nói chế độ chúng ta bị
bức tử từ cả hai thế lực tư bản
và CS. Ai
cũng biết trong khi Hoa Kỳ chấm dứt viện
trợ, th́ CSQT giúp đỡ tối đa cho Bắc
Việt để Bắc Việt tấn công chúng ta.
Chúng ta nh́n lại
quá khứ không phải để trách cứ quá khứ, hay
để đổ tội cho ai, mà nh́n lại quá khứ
để từ đó rút ra kinh nghiệm cho tương
lai. Sau năm 1975,
bản chất độc tài toàn trị, phản dân, bán
nước của CSVN đă lộ quá rơ trước
mắt toàn dân. Ai ai cũng thấy rơ điều nầy. Ngay cả những cán bộ CS
cũng sáng mắt ra v́ điều nầy. Đại tá Hồ Ngọc
Cẩn đă nói đúng: “Lịch sử sẽ phán xét các
anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy.”
Ngày nay, tuy chỉ
mới hơn 35 năm, LỊCH SỬ ĐĂ PHÁN XÉT. Chân lư đứng về phía lư tưởng Quốc
gia Dân tộc. Chân lư đứng về phía
Tự do Dân chủ. Bởi
v́ không bao giờ dân tộc Việt
Có
người hỏi, thời c̣n binh hùng tướng
mạnh mà chúng ta không thành công, bây giờ làm sao mà tranh
đấu? Câu trả lời rất
đơn giản: Có
người nào muốn CS ngự trị măi trên đầu
trên cổ dân tộc Việt
Xin tất cả hăy tiếp tay với những người trong
nước, đ̣i hỏi xóa bỏ độc tài, đ̣i
hỏi dân chủ, bởi v́ dân chủ là con đường duy nhất
để xây dựng tương lai đất nước. Chắc chắn lẽ phải
sẽ tất thắng. Chắc chắn dân
chủ sẽ tất thắng.
Trên bước đường tranh
đấu cho tương lai dân chủ Việt Nam, các
Hội Cựu Quân Nhân Hải ngoại giữ một vai tṛ
rất quan trọng, không kém ǵ quân đội VNCH
trước năm 1975. Xin hết lời ca ngợi các Hội CQN Hải
ngoại đă giữ lửa trên 35 năm nay. Xin chúc các Hội CQN vững tin
nơi chính ḿnh, nơi lư tưởng của ḿnh,
đừng mệt mỏi v́ đường dài hun hút,
đừng chao đảo v́ những tuyên truyền xuyên
tạc của CSVN.
Đồng ư rằng trong cuộc sống mới
tại quê hương mới, mọi người
đều cần có thời gian thư giản sau những
ngày làm lụng mệt nhọc, nhưng bên cạnh những
cuộc vui chơi thư giản, xin đừng quên ḿnh là
cựu quân nhân, đừng quên ḿnh đă từng mang trên
người 6 chữ vàng TỔ QUỐC -
DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM.
Vâng, 6 chữ vàng TỔ QUỐC - DANH DỰ - TRÁCH
NHIỆM là tiếng gọi thiêng liêng cao cả,
suốt đời hướng dẫn chúng ta đi tới
mục đích cuối cùng, làm tṛn nhiệm vụ với
đất nước, với sự tin tưởng
của quần chúng, với sự hy sinh anh dũng của
tiền nhân, nhất là sự hy sinh của những
người đă tuẫn tiết ngày 30-4-1975.
TRẦN
GIA PHỤNG
(