Lời Cám Ơn Muộn Màng
Hoàng Đ́nh Cảnh
Nhân mùa lễ
Tạ Ơn của Hoa-kỳ, tôi xin ghi lại một câu
chuyện nho nhỏ như một lời cám ơn gửi
đến vị ân nhân ẩn danh của tôi. Vị ân nhân này đă làm đại
ơn đại phúc cho tôi và các bạn cách đây đă 28
năm mà chúng tôi không hề biết danh tánh. Tôi xin thay
mặt nhóm anh em đă chịu ơn của vị ân nhân
nầy để ghi lại câu chuyện như một
bổn phận, như một lời cám ơn, dù rất
muộn màng.
Cách đây 28 năm, khoảng giữa
tháng Sáu năm 1981, 15 anh em chúng tôi mà hầu hết là
cựu Đại úy của QLVNCH, được gom lại và
sắp xếp cho ở riêng một “lán” tại trại
Cải Tạo Z-30A Hàm Tân. Ban Quản đốc trại cho
biết là đáng lẽ chúng tôi được trao trả
về địa phương quản lư ngay, nhưng v́ nhu
cầu sản xuất của trại chưa đạt
chỉ tiêu nên lưu giữ chúng tôi lại một vài tháng
để tiếp tục “lao động sản xuất”
cho trại. Hằng ngày, vệ binh dẫn chúng tôi đi
rất sâu vào Rừng Lá để t́m những cây buông c̣n có
lá non, chặt xuống, mang về nộp cho trại bán ra
ngoài cho các cơ sở làm nón hay làm túi xách. Có cơ hội
hỏi han nhau trong lúc đi lao động, mới biết
15 người chúng tôi đa số đă có thời là giáo
sư Trung học trước khi nhập ngũ, hoặc
một vài anh em, theo bản tự khai lư lịch,
được cho là thông thạo ngoại ngữ như
trường hợp của tôi trước đây có thời
gian làm giáo sư Tiểu Chủng Viện và sau đó có
cơ hội qua du học tại Hoa-kỳ. Ban Quản
đốc trại cho biết là chúng tôi được xét
tha về nộp đơn cho Hội Nhà Giáo Yêu Nước
để xin đi dạy học. Tin tức thông thạo
của một số anh em rỉ tai cho biết là các
trường Trung học rất thiếu giáo sư,
nhất là giáo sư sinh ngữ, v́ trong khoảng thời
gian nầy, nhiều vị giáo sư có khả năng
đă lần lượt vượt biển đi t́m
tự do.
Đến giữa tháng 11, 1981, vào lúc 3
giờ chiều một ngày không có nắng, chúng tôi mới
được phát tờ “Giấy Ra Trại” trong đó ghi
rơ điều kiện về tŕnh diện các cơ quan công
an địa phương và chịu “quản chế” ba
năm, đồng thời sắp xếp để đi
lao động dạy học.
Cầm được “Giấy Ra
Trại” và một số tiền nhỏ không đủ
trả tiền xe về nhà, chúng tôi như chim vỡ
tổ, chạy như bay ra Quốc Lộ 1 để
đón xe về Saig̣n sum họp với gia đ́nh. Rất
tiếc là vào giờ đó, xe đ̣ từ Miền Trung vào
thật thưa thớt và nếu có th́ đă đầy
ắp người, tài xế không muốn ngừng xe
đón thêm một đám người ăn mặc rách
rưới, thân thể gầy c̣m, đi đứng xiêu
vẹo nữa. Chúng tôi đang đứng tần ngần
không biết toan tính thế nào th́ giọng một
người đàn bà từ phía bên kia đường
vọng sang:
-Giờ nầy hết xe đ̣ Miền
Trung rồi, các ông cải tạo ơi !
Thất vọng, chúng tôi vội vàng
khăn gói bước qua bên kia Quốc lộ 1, theo chị
đàn bà đi theo con lộ nhỏ dài khoảng 15 mét
dẫn đến một xóm nhà có mái lợp lá hoặc
lợp “tôn” gồm khoảng 30 căn, dường như
được vội vàng dựng lên trên giải
đất lầy lội nầy.
Xóm nhà nầy có lẽ cũng là nơi
tạm trú cho thân nhân mỗi lần có “thăm nuôi”. Ngay chính
giữa xóm là một cột cờ phe phẩy lá cờ máu,
cờ đỏ sao vàng, lá cờ của một chế
độ đă đày đọa chúng tôi và dân tộc
Việt-Nam trong suốt bao nhiêu năm qua. Cuối miếng
đất là một ngôi chợ nhỏ có ba bốn cái
sạp trống không, xiêu vẹo. Chúng tôi tạm thời
chia nhau ngồi bệt trên đất và trên những
chiếc sạp đó.
Người đàn bà, nh́n kỹ,
độ bốn chục tuổi, không son phấn,
nước da sạm nắng, khuôn mặt ưa nh́n, ăn
mặc tươm tất có vẻ là dân thành thị khác
với cách ăn mặc lam lũ của dân chúng địa
phương mà chúng tôi thường ngày bắt gặp trong
khi đi lao động trong rừng sâu. Chị lên tiếng:
-Các anh đi theo tôi, may ra có xe cho các anh
về Saig̣n.
Chúng tôi vội vàng đứng lên và
bước theo chị đến một căn nhà lợp
“tôn” ngay phía sau cột cờ. Nh́n kỹ mới thấy
một tấm b́a cứng treo phía ngoài cửa chính, trên
đó có hàng chữ viết nguệch ngoạc “Trụ
sở Ủy Ban Nhân Dân Xóm”.
Chị đàn bà bước vào trụ
sở, nói chuyện với một người đàn ông
đứng tuổi, hói đầu, có vóc dáng nhỏ thó, có
cặp mắt láo liên thù nghịch nh́n chúng tôi không ngừng.
Chị nói:
-Ông Chủ tịch làm ơn giải
quyết giùm để có xe đưa các anh cải tạo
nầy về Thành phố.
Giọng ông Chủ tịch the thé:
-Chị bảo tôi làm sao đây? Tôi đă
nói với chị giờ nầy hết xe đ̣ Miền
Trung rồi. Thôi, tạm thời bảo họ nghỉ
đâu đó chờ đến sáng mai sẽ giải quyết.
Giọng người đàn bà vừa
năn nỉ vừa ra vẻ hăm dọa để làm áp
lực:
-Ông Chủ tịch quên là xóm ta c̣n có
một chiếc xe chở hàng đang nằm ́ ở phía
cuối xóm. Nếu ông chủ tịch “động viên”
được anh tài xế chở các anh nầy về
Thành phố th́ tôi sẽ bao nguyên chuyến cả
lượt đi, lượt về và xăng nhớt. Ông
c̣n nhớ không, năm ngoái, nghe lời ông kêu gọi, tôi
đă giúp tiền bạc cho ông để lập thành tích
lớn là dựng được ba lớp học cho xóm ta.
Ông cũng biết mấy người nầy vừa ở
trại cải tạo ra, quá khứ của họ cũng
“ghê” lắm. Chế độ ta đă đẩy họ vào
con đường cùng, việc ǵ mà họ không dám làm.
Nếu để cho họ vừa đói vừa khát ở
lại la cà trong xóm đêm nay, có chuyện ǵ không hay xảy
ra th́ liệu ông chủ tịch có gánh nỗi trách nhiệm
nầy hay không ?
Người đàn ông xuống giọng,
kỳ kèo sau một hồi đắn đo:
-Thôi, cũng được, tôi sẽ
làm theo yêu cầu của chị, nhưng chị phải
đài thọ luôn tiền ăn uống cho tài xế và
chị phải trả tiền trước ngay bây giờ.
Sau một hồi to nhỏ dường
như điều đ́nh giá cả cho hai lượt xe và
trả tiền, lăo chủ tịch lên tiếng:
-Chị nói với họ ra ngồi
sẵn trên xe, không được đi lại, ḍm ngó “linh
tinh”. Tôi sẽ cho gọi tài xế.
Không đợi nhắc nhở lần
thứ hai, chúng tôi lếch thếch đi về cuối
xóm, nơi có chiếc xe chở hàng thuộc loại “mini
bus” sơn màu vàng đang đậu. V́ là xe chở hàng nên
ḷng xe c̣n vướng vất mùi cá tươi và nước
mắm và dĩ nhiên không có ghế ngồi. Người
đàn bà đăm đăm nh́n chúng tôi lần
lượt bước lên xe, khuôn mặt rạng rỡ
tươi cười:
- Lát nữa đây tài xế Sơn
sẽ chở các anh về đoàn tụ với gia đ́nh.
Chúc các anh thượng lộ b́nh an và vui hưởng
tự do với gia đ́nh.
Chúng tôi nh́n chị mà ḷng lâng lâng nghẹn
ngào, mỗi người chỉ biết thốt lên “Cám
ơn chị” dù không biết người đàn bà làm
đại ơn đại phúc cho ḿnh tên ǵ. Đôi mắt
của chị ngấn lệ nh́n chúng tôi, gật
đầu.
Tài xế Sơn là một thanh niên khoảng
ngoài bốn mươi, gật đầu chào chúng tôi
rồi rồ máy cho xe tiến ra Quốc lộ 1
hướng về Saig̣n. Tài xế Sơn ít nói, có lẽ
trước đám người lạ mặt nầy, không
biết phải mở đầu câu chuyện như
thế nào. Ḷng xe im ĺm, mỗi người theo đuổi
một ư nghĩ, một dự tính khi lần đầu
tiên được tự do sum họp với gia đ́nh sau
bao năm trời xa cách. Chỉ có tiếng chiếc xe
mệt nhọc ́ ạch lăn bánh trên đường
nhựa gập ghềnh. Chỉ có tiếng th́ thào to
nhỏ giữa một số anh em quen biết nhau từ
trước. Qua khỏi đoạn đường
Rừng Lá, tôi lần ṃ nhích lên phía sau tài xế và gợi
chuyện:
-Anh Sơn có biết tên người
đàn bà đă thuê bao chuyến xe nầy hay không ?
Sơn chậm răi trả lời:
-Em không biết tên của chị,
chỉ nghe mọi người gọi là Chị Tư. Nghe
đâu chồng chị trước là Thiếu Tá trong Quân Đội
Miền Nam, đă chết trong một trại cải
tạo ở Miền Bắc. Chị có một người
em ruột là Đại Úy cũng chết bệnh trong trại
Hàm Tân nầy. Chị h́nh như có nhà ở Saig̣n, nhưng ra
buôn bán ở đây, rất sốt sắng giúp cho việc
xây dựng xóm và giúp đỡ các anh cải tạo
được tha về lẻ tẻ trong các đợt
trước đây. Chị đi ngược về xuôi
buôn bán kiếm đồng tiền cũng vất vả
lắm, là bạn hàng thường xuyên của em nên em
biết, nhưng rất rộng răi trong việc giúp
đỡ người khác. Hồi năy chị có giao cho em
một số tiền đă đổi sẵn tiền lẻ,
nhờ trao lại cho các anh để đi xe ôm hoặc
xích lô về nhà. Nhờ anh cầm lấy chia đều cho
các anh theo lời chị Tư dặn. Xe em chỉ vào
đến B́nh Ḥa, Gia Định là ngừng cho các anh xuống,
rồi quay trở về Hàm Tân. Xe em không có giấy phép
chạy trong Thành phố.
Tôi chuyển gói tiền lại cho các anh
em phía sau, rồi tiếp tục gợi chuyện với
Sơn. Sơn cho biết trước đây anh là lính
Địa Phương Quân, sau 1975 làm nghề tài xế
để sinh sống, và v́ tính t́nh dễ dăi, không câu nệ
giờ giấc nên Sơn được lăo chủ tịch
thuê làm tài xế lái xe chở hàng cho lăo. Sơn nói tiếp:
-Hằng ngày thấy các anh đi lao
động vất vả, ăn mặc rách rưói, ăn
uống kham khổ, ai thấy cũng ứa nước
mắt, nhưng biết làm ǵ hơn dưới chế
độ hà khắc nầy. Khi nghe Chị Tư cho
biết muốn em chở các anh về Thành phố là em
bỏ mọi việc nhà, tức tốc đi ngay. Tội
nghiệp Chị Tư, em chưa hề thấy ai có ḷng
thương người như chị. Vừa sốt
sắng lại vừa tỉ mỉ. Có lẽ chị
thương chồng, thương em nên thương lây
cả các chiến hữu của chồng, của em ḿnh.
Nghe đâu chị đă lo cho con cái vượt biên trót
lọt hết, c̣n chị th́ không có ư định hoặc có
ư định mà không dám nói ra.
Nghe những lời Sơn kể về
Chị Tư mà ḷng tôi nghẹn ngào nói không nên lời,
chỉ biết âm thầm cầu xin cho Chị đạt
được như ư những điều Chị
ước mong. Trời chắc chắn sẽ không phụ
ḷng những người tốt như Chị.
Về đến địa giới Gia
Định th́ trời đă chập choạng tối,
đường đă lên đèn. Sơn ngừng xe lại
tại một khúc đường vắng để chúng
tôi xuống xe. Không ai bảo ai, mỗi người cầm
nắm tiền Chị Tư cho trong tay, bắt tay Sơn và
nhờ Sơn chuyển lời chân thành cám ơn đến
Chị Tư.
Câu chuyện có thật nầy lần
đầu tiên được kể lại một cách
ngắn gọn theo trí nhớ tàn lụi của một
người chịu ơn. Những cảm xúc chân thành ban
đầu và nhiều chi tiết cảm động khác
của món nợ ân t́nh nầy đă bị thời gian xóa
nḥa theo tuổi đời. Tôi tự nghĩ đây là
bổn phận mà tôi đă lơ là trong gần 30 năm qua.
Tôi thật có lỗi với người ân nhân của ḿnh.
Nhân Mùa Lễ Tạ Ơn năm nay, tôi xin ghi lại
để một lần nữa công khai bày tỏ ḷng “Cám
Ơn Chị Tư” và cầu mong cho Chị và gia đ́nh
Chị t́m được hạnh phúc chân thật trên
miền đất Tự do nầy hoặc ở một
vùng đất nào đó đang quằn quại trên Quê
Hương Việt-Nam thống khổ của chúng ta.
Hoàng
Đ́nh Cảnh
Mùa Lễ Tạ Ơn 2009