Truyện ngắn

Dang Dở

Hoàng Minh Thúy

 

Tôi ngồi rất lâu trước phong thư mở ngỏ. Lá thư này, tôi đọc thuộc ḷng từng dấu chấm, phết đă ba hôm nay, nhưng tôi vẫn cứ đọc đi, đọc lại hoài, tự hỏi ḿnh sẽ phải hồi âm lá thư như thế nào?

 “....Từ Qui à, ba báo cho con một tin vui. Với ba đó là một cái tin vui thiệt là vui, nhưng ba biết sẽ làm cho con phân vân và ưu . Nhưng bổn phận của ba là phải báo cho con biết, rồi tùy con liệu định.

Thằng Phong, chồng của con vẫn c̣n sống. Nó vừa trở về. Nó đến nhà lừng lững như một bóng ma đội mồ sống dậy. Kể ra th́ nó mất tích hơn mười năm trời rồi c̣n ǵ! Ai ngờ nó c̣n sống, được thả về từ miền Bắc. Ba mừng quá, như vậy là bé Hải và bé Hà vẫn c̣n cha. Tội nghiệp, đầu tóc của nó bạc phếch, thân thể gầy c̣m...

Con à, con liệu phương cách nào, cho nó đi “vùng kinh tế mới”, để làm ăn, xây dựng đất nước..”

Tôi ngừng tia mắt lại ở gịng chữ cuối cùng. Bức thư của cha già đem đến cho tôi sự mừng rỡ trong nỗi sững sờ. Trời ơi! Phong vẫn c̣n sống? Và tôi, trở thành kẻ vong t́nh?

Đă hơn 10 năm, kể từ ngày biến loạn, Phong biến đi, ra khỏi cuộc đời tôi như một giấc mơ. Ngày di tản, tôi theo cha mẹ rời tỉnh lỵ thật sớm. C̣n Phong lui quân cùng với Trung đoàn của chàng, rồi mất tích luôn từ dạo đó.

Tôi một nách hai con dại, t́m mọi phương cách để kiếm tin chồng. Nổi trôi theo vận nước, tôi tần tảo bon chen để mưu sinh, ngày ngày cảm thấy mỏi ṃn trong tuyệt vọng.

Nhiều đêm trong gíâc ngủ, tôi thấy Phong hiện về, thân thể đầy máu, quân phục tả tơi. Nhiều lần, tôi bỏ một chuyến hàng, đi Lăng Ông, để xin một quẻ xăm, hỏi về mạng số của Phong và cuộc đời long đong của ḿnh.

Tôi yêu Phong, lấy chàng khi vừa đậu xong mảnh bằng Tú Tài. Câu chuyện t́nh bắt đầu rất nên thơ, kết thúc trong sự êm đẹp. Phong mang lon Trung Úy, Đại đội trưởng của một binh chủng tác chiến. Tôi đi dạy ngày hai buổi, ngóng chồng sau mỗi chuyến hành quân. Hai năm lập gia đ́nh. Mười lần chàng về phép. Cuộc đời chàng gắn liền với súng đạn, bản đồ và máy truyền tin. Chàng yêu đời lính như đó là một nghiệp dĩ của chàng, như tôi yêu phấn trắng, bảng đen và gương mặt ngây thơ của học tṛ.

Hai đứa con ra đời không hề thấy mặt cha măi đến ba bốn tháng sau, v́ mỗi lần tôi vào bảo sanh viện là mỗi lần chàng bận hành quân xa. Riết rồi tôi quen với cuộc đời của một người vợ lính. An hưởng những giây phút đoàn tụ hiếm hoi, chấp nhận sự thương đau, may rủi của thân phận làm vợ người quân nhân trong cơn ly loạn.

Kể ra th́ cũng lạ. Từ thời c̣n con gái, tuy có nhiều người đeo đuổi, nhưng tôi yêu cái hào hùng của bộ quần áo trận. Tôi thích nét phong sương của Phong trong màu da rám nắng. Tôi mê mệt h́nh ảnh Phong lúc chàng mặc quân phục tác chiến, đội nón sắt, đeo ba lô mỗi lúc sắp xuất quân. H́nh ảnh của Phong mang đầy nét anh hùng của một người trai thời ly loạn, có tinh thần trách nhiệm với quê hương. Và v́ vậy, tôi chấp nhận cuộc hôn nhân đầy bất trắc với Phong, chối từ một cuộc sống b́nh an, nếu về làm vợ một ông kỹ sư điện, con trai duy nhất của một gia đ́nh giàu có như cha mẹ đặt để.

Hai năm sau khi lập gia đ́nh, tôi đựơc tin Phú, viên Kỹ Sư ngày xưa cha mẹ định chỗ cho tôi, tử nạn trong một công vụ của sở. Tôi đă nói với cha tôi về duyên số cuộc đời. Tôi bằng ḷng với hạnh phúc mà tôi đă chọn.

Sau biến cố 30 tháng 4, 1975, tin Phong biền biệt. Tôi trở thành góa phụ lúc hai mươi bốn tuổi đầu. Lặn lội gieo neo, chạy ngược, chạy xuôi, nuôi con, t́m kiếm tin chồng. Bốn năm sau ngày ră đàn tan nghé, tôi t́m mọi cách để mang con vượt biển t́m tự do.

Trước ngày ra đi, tôi t́m đến bà mẹ chồng, để bà được thăm cháu lần cuối. Bà cầm tay tôi, khóc rất lâu. Bà khuyên tôi nên kiếm người nương tựa, đỡ đần. Tôi thương bà như mẹ ruột, tôi tự hứa trong ḷng, sẽ t́m đủ cách giúp đỡ cho bà khi đến được bến bờ tự do.

Sau hai lần thất bại, chuyến thứ ba cuộc vượt thoát của tôi thành công, nhưng đẫm đầy nước mắt. Đa số đàn bà trên tàu đều bị hăm hiếp khi gặp tàu của bọn hải tặc. May mắn cho tôi, Thành, viên tài công cũng là thợ máy. Chàng che chở bằng cách nhét tôi trong hầm máy, dùng dầu nhớt đổ đầy tóc tai nhem nhuốc như con lọ lem. Nhờ vậy, tôi đă thoát thảm cảnh đau thương này.

Đến trại tị nạn, Thành giúp đỡ cho mẹ con tôi đủ điều. Bé Hải, bé Hà c̣n nhỏ, nay ốm mai đau. Đời sống trên đảo thiếu thốn, bó buộc. Hơn bao giờ, tôi cảm nhận đươc sự cô đơn của một người đàn bà trong giây phút đó. Không cha mẹ, không thân nhân quanh ḿnh, tiền bạc đă mất sạch trong các chuyến vượt biên. Con cái quá nhỏ. Tôi nợ Thành món nợ ân t́nh không cách ǵ trả được.

Sau 9 tháng tạm cư, tôi được vào đất Mỹ. Tôi đến sau Thành bốn tháng. May mắn cho tôi, chúng tôi gặp lại nhau ngay trên thành phố. Một lần nữa, Thành đă là người tôi phải thọ thâm ân.

T́nh cảm nẩy sinh trên con thuyền nhỏ mong manh, gắn bó hơn khi sống trong một đảo tị nạn, bây giờ kề cận nhau trên xứ Mỹ mênh mông. Nhưng chỉ có chừng đó, tôi vẫn không đi quá xa, v́ tôi vẫn nghĩ đến Phong và hai đứa con. Với nghị lực bẩm sinh, tôi vẫn tự hào có đủ bản lănh để vượt qua sự khó khăn và cám dỗ của cuộc đời. Nhưng khi sống trên đất người một thời gian, th́ Thành như một chiếc dù lớn, cho tôi đựơc ẩn núp khi mưa gió băo bùng. Khi bắt đầu vào cuộc t́nh mới, tôi kể cho Thành nghe chi tiết mọi điều, kể cả tin Phong biệt tích và bà mẹ chồng đáng thương đang c̣m cỏi ở một góc quê hương. Thành im lặng rất lâu, rồi ôm bé Hải ôn tồn:

-Mọi việc xảy ra chỉ v́ chiến cuộc. Anh cũng có một gia đ́nh đă mất. Vợ và con anh đă chết trong trận B́nh Long của mùa hè năm 1972. Bây giờ ḿnh hăy quên hết mọi sự và bắt đầu trở lại. Anh yêu em, thương bé Hà, bé Hải, ước mong sao ơn trên sẽ ban hạnh phúc cho cuộc đời bất hạnh của chúng ḿnh.

Rồi tôi về làm vợ của Thành, chia xẻ ngọt bùi cay đắng trong cuộc đời lưu lạc. Thành đă tạo cho tôi một cuộc sống b́nh an, cho bé Hà, bé Hải t́nh phụ tử. Tôi vừa biết ơn chàng, vừa yêu chàng bởi tính khoan ḥa đại lượng. Cứ mỗi tháng một lần, chúng tôi lại đi mua quà, đóng thùng gửi về biếu cha mẹ của tôi và bà mẹ chồng cũ, tức là thân mẫu của Phong.

Tôi viết thư, kể hết mọi điều cho cha mẹ tôi về chuyện đi thêm bước nữa và không quên nhờ cha mẹ lui tới nhà của Phong để vấn an và săn sóc cho bà.

Cuộc đời như thế êm đềm trôi qua. Bây giờ, tin Phong c̣n sống trở về, tôi vừa mừng, vừa sửng sờ.

Mấy đêm nay, tôi không ngủ cho trọn giấc. Tôi h́nh dung h́nh ảnh của Phong, gầy c̣m, hốc hác. Chàng sẽ đau đớn biết bao nếu biết tin tôi nay là vợ của người khác!

Chiến tranh đă đẩy cuộc t́nh chúng tôi thành dang dở. Chiến tranh và hoàn cảnh đă đưa đẩy hai đứa con của chàng, thành con của người khác! Tôi băn khoăn không biết có nên nói cho Thành biết, tin của Phong đă trở về. Tôi có nên viết thư thăm Phong?

Tối hôm qua, khi thấy tôi trăn trở, Thành vội vàng đặt bàn tay lên đài trán, dịu dàng:

-Hai đêm nay, em sao vậy? Coi bộ em muốn bệnh rồi! Anh bảo em nên mướn thêm người, để phụ em mua bán. Tại em ôm đồm nhiều quá!

Tôi cười nhẹ, để chàng yên tâm:

-Không sao đâu! Anh ngủ đi, mai sớm c̣n đi làm. Dạo này mua bán cũng bết lắm. Em lo được mà!

Chúng tôi có một tiệm rượu nho nhỏ, Thành vẫn đi làm. Ngày Thứ Bảy, chàng ra phụ việc. Bé Hải và bé Hà đi học. Cuộc sống đang êm đềm. Lẽ nào tôi nói với Thành? Nhưng nếu không thố lộ, tôi lấy lư do ǵ để gửi tiền về tiếp tế cho Phong, kiếm đường đi “vùng kinh tế mới”, tức là vượt biển t́m tự do. Phong đă nhận chịu biết bao thiệt tḥi trong cuộc chiến vừa qua. Mười năm tù tội dài biết bao nhiêu! Bao nhiêu sinh lực của chàng đă bị mất đi trong mười năm cải tạo! Bao nhiêu đắng cay chàng phải gánh chịu. Trời ơi! Tôi phải làm sao đây?

Thành sang pḥng bên xem Hải và Hà đă yên giấc chưa, rồi trở lại giường với chiếc khăn mặt nóng có tẩm chút dầu Khuynh Diệp. Chàng nhẹ nhàng nâng đầu tôi lên:

-Để anh lau mặt cho em, em sẽ thấy dễ chịu.

Tôi im lặng để Thành đẩy chiếc khăn nóng vào tận chân tóc. Tôi muốn khóc ngay trong giây phút đó. Tôi muốn nói tôi yêu Thành lắm, nhưng tôi vẫn xót xa cho Phong. Với tôi, Phong chưa phạm một điều lầm lỗi. Vă lại, hai năm ân t́nh, mười lần về phép chưa bằng mấy năm dài tôi lận đận với Thành, nhưng với bé Hải, bé Hà, Phong vẫn là một cái bóng vô vàn kỷ niệm. Tôi quay mặt vào tường, giấu hai gịng nước mắt. Thành khẻ kéo chăn lên, đắp nhẹ qua người tôi, giọng dỗ dành:

-Ngủ ngon nhé, em.

          * * *

Hai  tháng sau khi nhận được thư nhà. Một buổi sáng đầu tháng 4, tôi tíêp một người khách lạ. Anh mua một chai Martel, đến quầy trả tiền.

Khi nhận đồng bạc cuối cùng thối lại, anh đưa cho tôi một bao thư, giọng nhẹ nhàng:

-Thư của Nguyễn Trần Phong, nhờ tôi chuyển lại cho bà!

Tôi ngước nh́n đăm đăm người khác, rồi thảng thốt kêu lên:

-Anh Phú!

Phú, là Đại đội phó của Phong.

Giọng Phú ngậm ngùi:

-Mười năm rồi mà chị vẫn nhớ đến tôi, kể cũng hay!

Nước mắt tôi nḥe nhoẹt khi Phú ôn tồn kể lại:

-Tôi và Phong bị địch bắt ngay trên đường di tản. Chúng chuyển bọn tôi đi liên miên từ trại tù này sang trại tù khác, cuối cùng chúng tôi không được ở chung nữa. Hai năm sau, tôi được thả và kiếm đường vượt thoát khỏi nước bằng đường bộ, qua ngă Campuchia. Mẹ tôi và mẹ của Phong vẫn thường liên lạc với nhau, v́ ở chung thành phố. Nhờ vậy, tôi biết tin Phong vừa được thả về. Tôi sống ở đây khá lâu, biết được chị đă yên bề gia thất. Tôi không đến thăm chị, v́ tôi muốn chị quên hết để lập lại cuộc đời. Nhưng từ khi biết tin Phong trở về, tôi có liên lạc với anh ấy....và đây, thư của Phong nhờ tôi trao lại cho chị.

Tôi run rẩy nh́n tuồng chữ của Phong. Nét bút phóng khoáng. Mỗi một nét chữ gợi bao h́nh ảnh cũ của những bức thư t́nh ngày xưa chàng viết gửi cho tôi, của t́nh yêu đầu đời trong trắng. Phú vừa quay lưng, tôi khóa cửa tiệm, lảo đảo dựa vào tường, rồi ngồi xuống mở thư:

Từ Qui,

Chắc em vô cùng ngạc nhiên khi nhận thư của anh, phải không? Thật ra, anh không làm bận ḷng em và làm em phải băn khoăn, nên anh xin vắn tắt vài gịng để em hiểu rơ sự việc.

Anh bị bắt trên trường rút quân, rồi  bị đưa ra Bắc, sau mười năm mới được thả về. Anh có đến nhà thăm ba má, được biết tin của em và con. Hơn nữa, anh cũng liên lạc được với Phú, người Đại Đội Phó của anh ngày xua, nhờ vậy, biết rơ hơn về cuộc sống của em và các con.

Anh rất mừng khi biết em đă có một cụôc sống ổn định. Anh cũng không trách hờn ǵ em cả, chẳng qua là do hoàn cảnh mà thôi. Ít ra th́ Hải và Hà đă có được một người cha tốt, em có một người chồng trung hậu.

Phần thiệt tḥi của anh, anh nhận chịu, v́ chẳng qua đó là cái số của ḿnh.

Ba có nói, đă viết thư qua cho em, nhờ em lo cho anh đi “vùng kinh tế mới”. Nhưng thật ra đó là chuyện không cần thiết nữa.

Vùng Kinh tế mới mà anh chọn không phải là vùng kinh tế mới như ba đă nói với em. Nói ít, chắc em hiểu nhiều. Khi em nhận được thư này, th́ anh đă đi rồi, đi xa lắm. Anh cám ơn em đă gửi quà và quan tâm đến Mẹ trong suốt thời gian dài vừa qua. Mẹ anh đă mất tuần rồi, v́ quá già. Thành phố này đâu có c̣n ǵ, để giữ chân anh nữa!

Mong em dạy dỗ con trở thành người hữu dụng. Dù cho ở phương trời hay góc bề nào, anh cũng luôn cầu nguyện cho em và cho hai con.

Măi măi yêu em,

Nguyễn Trần Phong

Tôi áp chặt thư Phong vào ngực, khóc rất nhỏ nhưng nghe những giọt lệ đang chảy ngược vào cổ họng. Mùi vị của nước mắt mặn chát. Tôi cảm thấy ḿnh bất lực, không giúp ǵ được cho chàng.

Từ đây, măi cho đến lúc ĺa đời, làm sao tôi sống an vui trong cuộc đời no ấm, dư thừa mà không tưởng nghĩ đến Phong? Chàng đi lại con đường ngày xưa đă chọn, từ ngày rời bỏ ngưỡng cửa Đại Học, để mặc áo lính. Con đường đầy bụi đỏ của mỗi chuyến hành quân. Con đường đầy śnh, bụi, muỗi ṃng, vác ba lô trèo đèo vượt suối của người lính Bộ Binh, sư đoàn 18. Mỗi con sông, mỗi góc rừng của vùng trời miền Đông, đều có vết máu, vết chân đồng đội. Đă có bao nhiêu máu, xương của chàng và đồng đội đổ xuống cho quê hương. Kết quả là mười năm tù tội, khổ sai, để bây giờ trở về chỉ c̣n hai bàn tay trắng và cả một gia đ́nh tan nát.

Nhưng, con đường ngày xưa chàng chọn, đôi khi c̣n được đi trong nắng mai đầy sắc hồng của hoa lá trong ngày hội khao quân. C̣n bây giờ, con đường chàng chọn, chỉ có ḿn bẫy, bóng tối và sự thiếu thốn tận cùng. Liệu Phong c̣n bao nhiêu sức lực, để đi hết cho đoạn đường chiến binh, để t́m ra điểm sáng vinh quang ở cuối đường hầm?

Tôi ngồi lặng với muôn ngàn câu hỏi. Tôi ngồi đó, với những giọt lệ ngắn, dài, thương cho người chồng cũ va khóc cho sự bất lực của ḿnh.

* * *

Ngày 30 tháng 4 trên xứ người. Tôi đưa hai con tham dự một cuộc mít tinh trong thành phố tôi ở. Trong màu cờ vàng, trong tiếng hoan hô, đả đảo vang trời, tôi mường tượng h́nh ảnh của Phong đâu đó. Hơn bao giờ hết, tôi thấy Phong lung linh trên ngọn cờ vàng bay phấp phới. Trong giây phút giao cảm này, tôi biết ḿnh sẽ phải làm ǵ, sống ra sao, dạy con thế nào, để xứng đáng với sự hy sinh của Phong và đồng đội của chàng./.

 

Hoàng Minh Thúy

 (Trích trong Tuyển Tập Truyện Ngắn “Mùa Xuân Chiến Thắng”, phát hành năm 1986)