Lời
Nguyện Cầu Cho Một Mùa Xuân
Hoàng Minh Thúy
Cha tôi là quân nhân của một binh chủng tác
chiến. Cả cuộc đời ông gắn liền
với vơ nghiệp. Ông đă leo từ cấp bậc
Thiếu Úy lên đến Thiếu Tá, Tiểu Đoàn
Trưởng của một đơn vị thiện
chiến.
Mẹ tôi là một người đàn
bà, có vóc dáng nhỏ nhắn, xinh đẹp với mái tóc dài
luôn vấn cao. Tuy rằng cha tôi không đẹp trai cho
lắm, nhưng sự oai nghi, dũng lược cùng khí
khái ngang tàng của một người chọn binh
nghiệp làm một cái nghề, là yếu tố thu hút
mẹ tôi. Có lẽ ông mê đời lính, v́ chí hướng
của ông mang tham vọng của một người hùng.
Mẹ tôi là một giai nhân, mơ sự hào hùng ấy nên
đă từ chối nhiều cuộc t́nh bằng an,
để về làm vợ của một kẻ chỉ
biết suốt đời gối đầu lên ba lô.
Rồi tôi ra đời trong sự ấm êm giữa hùng khí
của Cha và sự dịu hiền của Mẹ.
Suốt cuộc đời
thơ ấu, tôi sống êm đềm trong một cư xá
sĩ quan. Nơi đó, ngày ngày mẹ tôi đi dạy
học, thắp thỏm đợi cha về sau những
chuyến hành quân dài, ngắn. Những chiến
trường sôi động và nổi tiếng đều
có gót chân của Cha đi qua. Đă bao lần mẹ tôi bâng
khuâng, lo ngại, chờ đợi một hung tin. Nhưng,
không! Cha luôn luôn trở về bằng an, đôi khi phải
nằm bệnh viện vài tuần, rồi ông trở
về nhà. Vết thương chưa hoàn toàn b́nh phục,
ông lại hăng hái ra đi...
Trong những ngày cuối cùng
của biến cố tháng Tư đen, Cha tôi vẫn
biền biệt. Người ta chạy đôn, chạy
đáo, mua vàng, đổi đô la, t́m đường
bỏ nước, th́ Cha tôi vẫn tử thủ ở
đơn vị. Khi cờ CS phất phới trên kỳ
đài của dinh Độc Lập, lồng lộng
tiếng kêu quân đội hăy đầu hàng của tướng
Dương văn Minh, Cha về nhà. Đôi mắt trủng
sâu, râu ria tua tủa. Tôi thấy người già đi
hơn mười tuổi. Mẹ tôi khóc rấm rứt
chờ đợi sự quyết định của
người. Trong niềm tin gửi ân cần ấy,
mẹ tôi trao trọn quyền quyết định cuối
cùng cho Cha. Nhưng ông từ chối một sự chạy
trốn. Ghe của Cậu Tư tôi không chờ đợi
được nữa, nhổ neo đi t́m tự do.
Hai tuần sau, chúng tôi rời
khỏi căn nhà thân yêu với những thứ hành trang
nhẹ nhàng nhất, để trở về quê ngoại.
Nước mắt Mẹ tôi thánh thót rơi trên suốt các
nẻo đường quanh co khi phải rời bỏ
một nơi, mà chúng tôi đă sống quá êm ái của
một thời gian rất dài. Bà khóc cho một cuộc
đổi đời bi đát. Cha tôi đăm chiêu trong suốt
cuộc hành tŕnh.
Thời gian ngắn ngủi
một tháng sau đó, tôi đă làm quen với bờ sông
buồn chảy qua khu vườn ăn trái của ông bà
ngoại. Tôi đă làm quen với h́nh ảnh cha mẹ tôi
ngồi ven bờ sông mỗi buổi chiều. Nh́n mái tóc dài
của Mẹ hong gió, phất phơ quấn quít quanh cổ
Cha, tôi liên tưởng đến h́nh ảnh chia ly của
một cuốn phim Tàu nào đó. Quả thật, có một
ngày Cha tôi đă bước xuống xuồng, để
đi “học tập cải tạo”. Mẹ tôi đứng
dựa bên gốc cây Liễu, nh́n theo măi cho đến khi
bóng xuồng khuất trong màn sương mỏng của
buổi chiều đang xuống.
Từ đó, tin Cha biền
biệt. Nước mắt mẹ tôi nḥe nhoẹt hằng
đêm. Sự chờ mong tin xa làm cho bà mệt mỏi.
Rồi trong một đêm mưa, tiếng Cha quen thuộc
gọi qua khung cửa sổ. Như một cơn gió
đêm, Cha xuất hiện với hai người đàn ông
lạ mặt. Mẹ tôi nấc lên, gh́ chặt lấy Cha,
không màng đến mùi hôi thúi bốc lên từ thân thể
của ông. Cha gầy, đen, lỡ lói, râu ria xồm xoàm,
nhưng nét quen thuộc trong đôi mắt sáng quắc
của ông, đủ để cho tôi nhận ra đấy
là người cha thân yêu của ḿnh. Tôi níu cánh tay Cha.
Rất nhanh ông nói:
-Ḿnh ạ! Anh được
tổ chức kháng chiến giải thoát và phải vào
rừng ngay bây giờ. Anh ghé qua thăm em và con. Liệu lo
cho nó ra đi t́m cậu Tư, nếu có dịp. Ḿnh ạ,
hăy can đảm lên!
Quay sang tôi, ông xoa đầu âu
yếm:
-Con đă lớn! Hiểu
bổn phận ḿnh phải làm.
Rồi nâng mặt tôi lên, nh́n sâu
vào đôi mắt của tôi, ông nói:
-Cố gắng
lên, con nhé!
Hai người
đàn ông lạ, vỗ nhẹ vai Cha. Ông bương bă quay
ḿnh ra bóng tối. Cuộc tao ngộ tưởng chừng
như một giấc mơ ngắn ngủi. Chỉ xuất
hiện được năm, mười phút rồi tan
biến. Đêm mù mịt tối. Mẹ tôi kéo vội tôi ra
bờ sông vắng vẻ. Bà gục xuống người
tôi, như một thân cây đổ.
* * *
Từ ngày đó,
tôi bổ học, tập cuốc, tập cày. Tập cúi
đầu trước những người quen cũ
lần lượt xuất hiện, ḍ xét mẹ con tôi. Khu vườn
trái cây trở thành một tổ ấm, che chở, chăm
bón mẹ con tôi. Một cuộc sống tuy thiếu
thốn, vất vả, nhưng cũng qua ngày.
Mẹ tôi ngày càng
ít nói. Đêm đêm bà thường đốt nhang, thầm
lặng van vái thật lâu trước bàn thờ ông bà
ngoại. Bà cúi đầu thật sâu, thầm th́ khấn, thành
kính, lặng lẽ. Rồi tiếng mơ tụng kinh của
bà lóc cóc vang lên, ru tôi vào giấc ngủ chập chờn
đầy h́nh ảnh người cha xa vắng..
Cây mai vàng
trước sân lác đác những nụ hoa mơn mởn,
cùng một lúc với tiếng thở dài u uẩn của
mẹ hằng đêm. Mái tóc dài đen nhánh của bà trở
nên xơ xác, lấm tấm những sợi bạc.
Buổi chiều
bà vẫn ra bờ sông, nơi mà bà cùng cha thường
ngồi tâm sự. Nh́n dáng Mẹ ngồi hong tóc lẽ loi,
mơ mộng nh́n gịng nước chảy xuôi, tôi mơ
hồ thấy nỗi đau xót tủi hờn của
một người thua trận. V́ thua trận nên cha tôi
phải vào rừng. Tôi thay tay viết thành tay cầy, tay
cuốc. Mẹ phải khom lưng trên những luống
rau, nuôi heo, kiếm tiền độ nhật. Mẹ
phải cúi đầu thật sâu, phải thưa dạ
với những kẻ chiến thắng ḍm ngó, ḍ xét.
Ngày Mùng một
Tết, cái tết đầu tiên của người thua
trận, của một thành phố vừa bị
đổi tên, tôi không dược mặc áo mới, không có
tiền mừng tuổi của mẹ tặng cho như
những mùa Xuân cũ. Tôi đă già đi hơn số
tuổi của tôi. Tôi đă chửng chạc, biết chia
xẻ nỗi đắng cay, đan khổ, buồn
nhớ của mẹ.
Khoảng Mùng
Mười, khi cả hai mẹ con cùng mệt mỏi th́
một tin thư mang gịng chữ quen thuộc của cha.
Chỉ có năm gịng ngắn ngủi...Bà ôm tôi, cười
trong nước mắt nhạt nḥa:
-Phong! Đúng là
chữ của cha!
Vâng, chỉ có
chừng đó thôi nhưng gói ghém biết bao mừng vui
của bà ̣a vỡ. Bà chặt cánh mai nở muộn, cắm
lên bàn thờ, ś sụp lạy. Mẹ con tôi ăn Tết
muộn, nhưng rất vui.
Thời gian sau
đó lặng lẽ trôi qua. Nụ cười của
mẹ tắt dần theo từng tờ lịch rụng.
Khu vườn đă quạnh vắng, càng buồn tẻ
hơn trong những ngày sau tết.
Đêm đêm bà ra trước bàn thiên khấn vái. Tôi
nghe có một cái ǵ đó chạy rờn rợn theo sống
lưng. Tôi mường tượng đâu đó h́nh
ảnh của cha tôi. Tôi thường bước ra sân, ôm
chặt mẹ, đẩy nhẹ vào nhà, lau cho mẹ những
hạt lệ nóng chảy đầm đ́a..
Mùa Xuân thứ hai
đến rồi qua đi trong sự chờ đợi
khắc khoải của hai chúng tôi. Mẹ con tôi bật
dậy, nín thở, vui mừng khi nghe tiếng chó sủa xa
xa. Tiếng mái chèo đập vào mạn thuyền. Vừa
mừng, vừa sợ. Nhưng, không...Không có ǵ hết!
Qua ngày Mùng
Mười, Mười Một, Mười Hai, mẹ tôi
hầu như không ngủ. Bà ngồi trước bàn
thờ nghi ngút khói và hương trầm. Tiếng tụng
kinh buồn thảm, ngân nga. Tôi trăn trở trên bộ ván
gơ. Mắt mở thao láo nh́n dáng bà ngồi nhẫn nại ê
a..Tôi nh́n khung ảnh ông bà ngoại hiền từ, rồi
tôi úp mặt xuống gối, bịt cả hai tai lại.
Qua Tết, bà
ngả bệnh, nằm xuống. Trên đôi môi khô héo, bà
gọi tên cha. Âm thanh nức nở, day dứt. Tôi đôn
đáo chạy thuốc, t́m thầy. Nhưng hỡi ơi,
có thuốc nào chữa cho bà khỏi chứng trầm kha?
Trong một
đêm mưa, bà gọi tên cha tôi lần chót. Tôi nắm
chặt tay bà. Không khóc. Ḷng tôi chất ngất hận thù.
* * *
Tôi chôn mẹ tôi
dưới gốc cây Liễu, cạnh bờ sông. Tôi
ước mong linh hồn bà được ngủ yên
nơi mà thuở xưa là kỷ niệm của bà. Nếu
có dịp ghé sang đây, Cha tôi sẽ dễ dàng nh́n thấy
chỗ gởi nắm xương tàn của người
vợ hiền yếu đuối ngày nào. Ngày chôn mẹ, tôi
không khóc. Tôi đứng lặng rất lâu, nghĩ
đến những mùa Xuân cũ. Ḷng tôi dấy lên những
âm thanh thê thiết. Tôi đă được trui luyện trưởng
thành của một sự đau đớn, trong hận
thù, trong nỗi cô quạnh của một kẻ mất
hết người thân yêu.
Những ngày c̣n
lại sống trong khu vườn cũ là một cái
mốc vô cùng đớn đau. Tin cha vẫn bằng
bặc. Mỗi chiều đốt nhang trên mồ Mẹ,
tôi đă toan tính những chuyện phải làm để
được ra đi.
Tôi không thể bó
tay chờ đợi trong nỗi ray rứt không tên. Cha tôi
ở đâu? C̣n sống hay đă chết? Tôi phải làm ǵ
để nuôi dưỡng ngọn lửa phục thù?
Rồi tôi t́m cách
được móc nối vào một người chủ ghe
đang toan tính vượt biên. Tôi được xếp
vào công tác chuyển dầu ra băi, được chấp
thuận cho đi. Tôi băn khoăn rất nhiều
trước một quyết định táo bạo: bỏ
lại mẹ tôi nằm hiu quạnh bên bờ sông buồn,
dưới gốc cây Liễu không khói nhang. Bỏ lại
người cha c̣n biền biệt trong rừng già. Bỏ
lại quê hương dấu yêu. Tôi gục đầu
xuống khoang thuyền. Lần đầu tiên sau ngày
Mẹ chết, tôi đă khóc. Khóc thật nhiều.
Mùa Xuân kế
tiếp, tôi đón Giao Thừa trong một trại tị
nạn. Thiếu thốn vật chất lẫn tinh
thần. Những ngày cuối Đông, gió lành lạnh
thổi. Tôi cảm nhận sự cô đơn đầy
ắp của ḿnh, khi nh́n những gia đ́nh vượt
biển có cha mẹ, vợ
chồng, con cái. Họ quây quần bên mâm cơm. Tôi
quay mặt đi nuốt ực sự nghẹn ngào. Tôi
tưởng rằng ḷng ḿnh đă chai đá. Tôi
tưởng trong tôi chỉ c̣n sự lỳ lợm bất
cần. Nhưng không! Trong những tháng ngày dài chờ
đợi để được chấp thuận
định cư ở nước thứ ba, tôi đă
sống trong sự cô đơn dài dằng dặc.
Nhiều lần tôi đă chảy nước mắt.
Những ngày cuối tuần, tôi vào Thư Viện, t́m
đọc tất cả các báo, từng mẫu tin của
các tổ chức chánh trị. Tôi hy vọng t́m thấy trong
đó, có dính líu ǵ đến các hoạt động của
Cha tôi. Người c̣n sống hay đă chết? Hiện giờ
đang ở vùng trời nào?
Tôi sợ
những mùa Xuân đến, v́ nó luôn luôn gợi cho tôi
nhớ nhưng bức rức, nhớ đến căn nhà
kỷ niệm, h́nh ảnh mẹ tôi trước bàn thiên,
nhớ mộ mẹ nằm hiu quạnh bên bờ sông
buồn. Tôi nhớ đến cử chỉ của Cha
hấp tấp lúc tạ từ. Cho đến chết, tôi
không bao giờ quên tin nh́n trao gửi, tin cậy cha đă
dành cho tôi, đứa con trai duy nhất của ông.
Tôi nhớ xót xa
từng bóng dừa rũ lá, từng mái chèo khua nước
trên sông. Tôi nhớ những ngày cuối cùng trước khi
bỏ nước ra đi, tôi đă ra đứng rất
lâu bên mồ của Mẹ, thầm lặng kể cho
mẹ nghe những giấc mơ của nhiều nửa
đêm. Trong bóng tối hắt hiu của buổi chiều
đang xuống, trong tiếng xào xạc của những
tàu lá chuối, trong nỗi cô đơn, tôi nói với
mẹ rằng:
-Mẹ ơi!
Một ngày nào đó con phải ra đi. Xin mẹ hăy phù hộ cho con. Xin
mẹ hăy hiểu rằng, ra đi không phả là một
sự chạy trốn hèn nhát, mà để mưu
đồ. Con muốn t́m một con đường....Con
muốn...Mẹ ơi!
Vâng! Tôi muốn nhiều thứ
lắm, nhưng không phải để cho cá nhân tôi. Tôi
muốn gặp lại Cha, tôi muốn con đường
trở về của người không phải ở trong
bóng tối của một đêm mưa. Tôi muốn ngọn
cờ Vàng, ba sọc Đỏ đă từng tắm máu
của cha và các chiến hữu, không phải nằm lăn
lóc ngoài góc đường trong ngày thua trận. Ngọn
cờ chính nghĩa đó phải được
dương cao, được nâng lên bằng đôi bàn tay
trân trọng tôn kính.
Mùa Xuân này tôi tṛn hai mươi
tuổi. Tuổi ươm mơ đầy nhựa
sống của một thanh niên. Tôi không hút thuốc, không
đánh bạc, không bạn gái. Tôi sống khô khan, cằn
cổi bên những trang sách, trong những ngày hội
họp với các Hội Đoàn, trong sự nôn nóng
được trở về, được giải phóng
quê hương.
Nén nhang này, tôi thắp trên
phần đất lạc loài của xứ Mỹ thênh
thang. Tôi ước ao một ngày nào đó, con
đường trở về của tôi cũng thênh thang như
những xa lộ tân kỳ của xứ người. Ngày
ấy, ôi c̣n nỗi vui mừng nào hơn nữa? Tôi sẽ
quỳ xuống, hôn những cánh hoa Mai của khu
vườn cũ. Tôi sẽ được ngửi lại
mùi hương bàng bạc của những luống hoa,
của hoa bưởi, hoa cau chung quanh căn nhà kỷ
niệm. Và lúc đo, chắc chắn tôi sẽ t́m
được hạnh phúc của một đời sống
b́nh yên. Đời sống của một kẻ có quê
hương./.
Hoàng
Minh Thúy
(trích trong Tuyển Tập
Truyện Ngắn, phát hành năm 1985)