Truyện
Ngắn
Chiếc Giường
Tre Bông
Tường Lam
Khúc quanh cuộc đời
đôi khi khiến người ta chọn cho mình một
nghề bất đắc dĩ. Tự róc cho mình một khúc mía
để ăn tôi chưa từng làm, đi tù về tôi theo Đức - một người rất
kém đạo đức – mua mía ép đường. Theo lời
Đức anh là một tay lái mía sừng
sỏ nhứt ở huyện này.
Hai
đám mía mở hàng đầu tiên đều lỗ,
một – mía bón phân trâu, hai - Đức leo
lên cây cao ước lượng đám mía mua mão, quên
trừ đi diện tích mương rãnh.
Rã hùn, tôi tự đi mua mía
một mình. Quan sát kỹ
thế đất cao thấp, đất thịt hay
đất cát, mía đứng hay ngả,
tôi lấy móng tay bấm vào vỏ mía để đánh giá
mía non, già để định độ đường.
Tôi đếm từng cây mía của
một liếp, lấy số trung bình nhân lên với số
liếp tôi có được trọng lượng toàn
đám mía một cách tương đối chính xác! Do
đó đám mía nào tôi mua đều có lời. Đốn
mía, cân vác xuống ghe, chở mía đến nhà che ép và
nấu thành đường cũng lắm cảnh gian nan.
Gặp lúc mía ứ đọng, che máy
hư, nhìn mía nằm phơi giữa nắng hè, lòng buồn
muốn bốc hơi! Mía khô lượng
đường nấu ra sẽ ít đi. Còn phải có thuốc hút cho toán che, có như
vậy che mới được xiết chặt, mía
mới hết nước. Riêng thợ nấu và
đánh lao, biết điều với
hai tay này, lửa tốt, nước, đường sang
chảo không bị khét, đủ lượng vôi và
thuốc tẩy, mặt đường ra dòn, vàng
ươm, đắt như tôm tươi và
được cao giá.
Qui uớc bất thành
văn tự trên, người lái mía nào cũng phải
biết, nếu không muốn nói thuộc nằm lòng.
Đang thiu thiu ngủ trên võng mắc
giữa hai cột của nhà che, Lực thợ nấu
đường, lay chân, đánh thức tôi dậy và nói :
- Lên quán ‘’Đêm
mầu hồng‘’ uống cà phê ông thầy.
Tôi ngồi dậy, vuốt tóc lầu
bầu:
- Đang ngủ ngon mày phá tao hoài ! Nhớ kêu hết tụi
nó đi với, ở xứ hóc bà tó này quán cà phê bày
đặt lấy tên dancing
Lực khẽ đưa ngón tay lên môi, ra
vẻ bí mật, cười cười nói :
- Gặp mặt cô chủ quán, ông
thầy đi hết nổi luôn.
Cả bọn sáu thằng
cùng đi. Chữ
ông thày nói lên sự nể nang về tuổi tác giữa
đám công nhân lò đường và tôi, đồng thời
khẳng định trước khi rời quán tôi là
người trả tiền.
Quán nằm trên con đường
đất lớn và lối rẻ vào cơ ngơi của
bà cả Quờn, một tay giàu có nhất vùng, thuở vàng
son mỗi năm bà cả thâu vào cả mấy chục ngàn
giạ lúa, ông Cả cưỡi ngựa đi thăm
ruộng. Sáu tháng sau ngày Cộng sản chiếm miền
Nam, bà Cả chỉ còn giữ lại một mẫu
gồm một bờ lớn trồng hai hàng phượng
vĩ già chạy dài tới cổng gạch loang lỗ rêu
phong, qua sân gạch đầy cỏ cú và rau càng cua, ngôi nhà
gồm năm gian nền cao tới ngực, lẩm lúa
lợp ngói và máng xối không còn. Ngôi nhà
chống đỡ bằng mấy cây cột gỗ lim,
người ôm không giáp. Có người biết
chuyện nói lại rằng, ngày xưa vào ngày giỗ
kỵ hay Tết, ông Cả mướn người ôm bao
bố tẩm dầu trong, quấn quanh cột leo lên ôm, tuột
xuống mấy chục lần - cột trở lên bóng
lộn, tủ thờ, bàn ghế, trang kỷ đều
cẩn ốc sa cừ, hoành tráng và sang trọng vô cùng. Ông
Cả qua đời từ lâu, bà không con cái, giờ
sống với hai vợ chồng người giúp việc
mà chính bà đứng ra cưới hỏi.
Quán cà phê đầu ngõ
bề ngang độ ba thuớc bề dài gấp ba,
cột làm bằng dầu u bào láng, vừng mê bồ,
nền lát gạch tàu đỏ gạch tôm trông gọn gàng
và sạch sẽ. Cửa
cái hai cánh bằng gỗ thông, riêng vách hai bên cửa là hai
tấm tôn lớn chống lên treo bằng hai sợi kẽm
to móc lên đòn tay tre. Bên
phải bày bán thực phẩm khô và một thùng thuốc lá
lớn đủ loại. Bên trái một bàn hình
chữ nhật, mặt bằng đá mài màu xanh, bày biện
ly tách keo đựng đường, cà phê, chanh muối và
cạnh bên lò lửa lúc nào cũng cháy, đun bằng
trấu, một nồi nước sôi bốc khói. Đặc
biệt bên trong sát vách trên đầu tủ kiếng
một cassette to hai hộp, hai bên về phía trên, kệ
đóng tựa vào vách hai loa nhạc rộng gần ba
tấc phát ra tiếng nhạc trung thực và hấp
dẫn vô cùng.
Trời tháng năm mấy
cây phượng già ra hoa đỏ thắm. Bàn ghế cho khách ngồi
làm bằng cây tầm vong, chấp nối bằng mộng,
không dùng đinh nhưng chắc chắn và mỹ thuật.
Mé mương bên cạnh chủ quán cho bồi bùn, trồng
hoa mười giờ Thái Lan, một chỗ uống cà phê
lý tưởng mà chỉ cách đây năm năm thôi, lúc còn
chiến tranh hoang tàn không một bóng người. Cũng
cần nói thêm bàn ghế làm bằng cây tầm vong là sản
phẩm độc đáo của bác Tám Tước, một
thợ mộc khéo tay nổi tiếng
trong vùng. Sản phẩm làm nên tên tuổi bác
là chiếc giường ngủ bằng tre bông, một
loại tre suông, thẳng, mỏng cơm, da nổi bông
như mai con đồi mồi. Như
nói ở trên, sản phẩm của bác Tám Tước
chỉ đục mộng chứ không dùng đinh. Tre bông mỏng cơm là thế, giường
đóng xong đánh dầu trong, chắc chắn và
đẹp mắt vô cùng. Đặc biệt dọc
theo chiều dài hai bên thân giường được khoét
dãy lỗ tròn bằng ngón tay út, được chêm vào
bằng những nan tre vót thật mỏng làm lưỡi
gà, gió thổi vào phát ra âm thanh vi vu như ai thổi sáo,
dễ đưa người nằm đi vào giấc
ngủ bình yên.
Trong kia có mấy bàn
đầy khách đang nhâm nhi cà phê, nhả khói. Mãi mê,
đứng tần ngần nhìn quang cảnh quán, Lực
vỗ vai tôi và nói :
- Xin giới thiệu !
Đây chú bảy Ánh sư phụ tụi em – đưa tay
về phía người đàn bà mặc bộ bà ba màu
mỡ gà :
- Và đây cô ba Khanh chủ quán cà phê ‘’Đêm màu hồng.’’
Người đàn bà lịch sự
mỉm cười chào tôi :
- Hân hạnh được tiếp anh
Bảy.
Tôi đứng sửng quên cả câu chào
xã giao, đưa mắt nhìn theo tà áo màu
mỡ gà, thon dài, hông xẻ cao, Khanh lảnh khảnh
bước đi, gió mát từ cánh đồng thổi vào,
tà áo bay bay phô thêm phần da thịt trắng ngần. Hôm đó – tôi - một trong những người
hiếm hoi - biết rõ nghĩa câu hát… tà áo em phơi bày.
Thái độ ngẩn
ngơ của tôi đã làm đám thằng Lực
cười khoái trá.
Lát sau Khanh trở ra, tay bưng bình trà tay
kia dĩa đậu phộng rang và ôn tồn hỏi
:
- Anh Bảy và mấy chú dùng chi ?
Không cần hỏi ý kiến ai, Lực
vọt miệng :
- Cô Khanh cho bảy ly cà phê
đá và một gói Captan.
Khanh trở vào và từ hai chiếc loa
trong quán tiếng Thanh Thúy gào thét, nhừa nhựa, ma túy… ‘’ Giết người đi,
giết người đi… giết người quên tình
nghĩa phu thê...’’
Tôi hớp một ngụm
cà phê đầy bọt, nghe nghèn nghẹn trong lòng vì
giọng hát lời ca ma quái liêu trai đó.
Lâu lắm rồi tôi đâu còn
được nghe loại nhạc ru lòng
người hết thảy dân miền
- Mấy anh đi cải tạo phải
chịu kỷ luật ! chứ
ngoài Hà Nội nhà nào, phố nào… Thanh Thúy, Lệ Thu, Khánh Ly…
ra rả suốt ngày ‘’ có làm sao
đâu ! ! ! ’’
Đặt gói Captan xuống bàn, Khanh hỏi :
- Anh thấy cà phê và nhạc ở quán em
thế nào ?
- Tuyệt! nhưng cô
dám xử dụng nhạc vàng ?
Khanh cười :
- Của công an Xã đem tới, em
biểu ký tên vào băng nhạc rồi cho hát
! Phép vua thua lệ làng mà anh. Lúc
chiến tranh vùng này là vùng trắng, ở đây toàn dân theo
cách mạng, bộ đội không hà !
Nên chẳng sợ ai ! Họ
nghe thoải mái. Riêng em dân
Con nước lớn chảy vào
rạch, chiều xuống chầm chậm, gió mát hây hây, lòng
mềm rã rời bên mùi cà phê độc đáo, khói thuốc
Captan thơm lừng và hồn tôi trôi đi theo ‘’Nửa hồn thương
đau.. ‘’ và ‘ Chuyến
tàu hoàng hôn...‘’ đã chở tôi về những tháng ngày áo
trận, giày saut và bóng dáng những người tình mà
giờ đây chỉ còn là kỷ niệm khói sương.
Những ngày sau đó, đám thằng
Lực vô mánh, chưa mở lời tôi đã rủ chúng nó
lên quán, rồi qua nhiều lần nhìn ngắm bóng dáng Khanh
qua đủ màu áo, tôi thấy thượng đế
đã tặng cho Khanh quá nhiều ân sủng, tóc đen
huyền hờ hững ngang lưng, trán thông minh, mắt to
đen lay láy, môi hơi dầy vẩu lên nét bướng
bỉnh nhưng lúc nào cũng nở nụ cười
thật tươi, thân hình đàn bà tròn lẳn… Gặp Khanh và nói chuyện một lần ai
cũng muốn gặp lại lần thứ hai.
Có lần lên quán một mình, vắng
khách, Khanh trút hết nỗi lòng cùng tôi :
- Em tên Vương Thụy Khanh, con
một, ba má em đã mất. Em là cháu ruột
ông cả Qườn. Trong đất hương hỏa
này có em một phần, ông cả Qườn và ba em là hai
anh em ruột. Cơ ngơi này em
để cho bà Cả hưởng hết. Trước đây em được gia đình
gởi học nội trú ở
Chở về
được cặp loa, em mở quán cà phê chờ
thời, tiện tặn tìm đường đi nữa. Còn quán có tên ‘’
đêm màu hồng ‘’ để nhớ lại những
ngày huy hoàng cũ cùng bạn bè uống cà phê nhảy nhót nghe
ban Thăng Long và đặc biệt em mê tiếng hát Thái
Thanh của Dancing Đêm màu hồng.
Dừng một lát với nụ
cười buồn Khanh tiếp :
- Quán của em đúng nghĩa phải
đặt ‘’ Đêm màu bùn ‘’ màu
của đời em.
Khanh cúi xuống dừng tay
lau nước mắt, tôi mồi thêm điếu thuốc.
Khanh chờ thời
nhưng thời gian không cho Khanh bình yên. Ba chị gái đều có
chồng miệt xa. Năm Hoàng, trưởng nam bà tám
Khôi chủ lò đường là khách trung thành nhất
của quán, học ở Cần Thơ, đi bộ
đội, bất mãn ôm ba lô trở về quê cai quản lò
đường thế mẹ.
Năm Hoàng lên đây không
nghiện cà phê mà ghiền hương vị cô chủ quán.
Nghe đám thằng lực
nói lại, Năm Hoàng thường xuyên kêu tụi nó vác
đường thùng vàng, ngon tặng cô chủ quán bán lẻ. Những lần Năm
Hoàng lái chẹt lên tỉnh bán đường y như là
quán cà phê ‘’ đêm màu hồng ‘’
đóng cửa. Khanh về trước, chiều
Năm Hoàng và đám đệ tử lái chẹt về sau
chở theo đồ tạp hóa cho Khanh.
Trung bình mỗi tuần tôi chở
một ghe từ mười đến mười lăm
tấn mía vào lò ép, nấu thành đường đem bán cho
các lò cối ly tâm thành đường cát trắng. Trừ
đi tiền lò và mọi chi phí khác tôi lời khoảng
năm trăm ngàn, thời điểm đó thu
nhập như vậy là khấm khá lắm.
Ghe chưa dừng hẳn,
tôi nhảy lên bờ kéo dây buộc vào gốc dừa, nghe
nhiều tiếng khóc trong nhà bà Tám Khôi, người tụ
đông phía trước.
Thằng Lực mắt đỏ hoe chạy ra mé sông báo :
- Chú Bảy ơi ! Năm Hoàng chết rồi.
Tôi sửng đi một lúc
rồi rẽ đám đông bước vào nhà. Xác Năm Hoàng liệm vào
quan tài, mắt mở trừng, da tím đen, nét đau
đớn còn in rõ, chưa đóng nắp vì thầy coi
chưa đúng giờ tốt.
Tôi đến cạnh bà Tám Khôi, tóc tai bà bù rối, thân hình rũ xuống như
tàu lá héo. Ngước lên, thấy tôi bà khóc rống lên
kể lể :
-Chú Bảy ơi !
Thằng Hoàng nó bỏ tôi đi rồi chú Bảy ơi ! Nó bị con đĩ ngựa rù
quến mới chết tức chết tưởi,
chết đau đớn bầm đen mình mẩy hết
con ơi ! là con ơi.
Trời tru đất diệt con đĩ ngựa đó
đi. Chú Bảy ơi! Là chú Bảy ơi! Con già này làm sao
sống nổi đây chú Bảy ơi! Con ơi! Là con
ơi.
An ủi, lau nước mắt cho bà, tôi
bước ra ngoài, trên bàn đầy tách, bình trà, bánh
ngọt thuốc rê. Đám thằng Lực kể lại
đầu đuôi :
- Khoảng tám giờ tối, ngày hôm qua,
tắt bếp, lau chùi chảo, lò, tụi cháu súm lại
ăn cơm, Năm Hoàng cũng ngồi ăn chung, có con
vịt luộc tụi cháu sáu thằng cả anh Năm
nữa là bảy, chơi hết hai lít đế. Tụi này cườm cườm, anh Năm Hoàng
cũng đã rồi, rủ tụi cháu lên quán cô Khanh
uống cà phê.
Ngồi ngoài trời nghe nhạc, hút
mới nửa điếu thuốc anh Năm than chóng
mặt, tụi em đưa vào quán cạo gió, cô Khanh pha cho ảnh một ly chanh đường
nước sôi. Tụi cháu ngồi nghe
nhạc tới khuya, anh Năm nằm ngang trên giường
cô Khanh ngủ, chân quay vào vách. Cô Khanh vừa giăng
võng vừa bảo tụi cháu : ‘’ Mấy chú về đi
để anh Năm nằm ngủ cho khoẻ, chị
nằm ngoài võng không có gì trở ngại đâu.’’
Sáng sớm tụi cháu lên
quán uống cà phê đồng thời kêu anh Năm về,
lái chẹt đi tỉnh bán đường cho kịp
nước.
Chị Khanh nấu
nước, dọn bàn, tụi cháu vào lay anh Năm dậy
mới hay mình mẩy anh lạnh ngắt, cứng đơ
bầm tím. Tụi
cháu đem xác anh Năm về đây, tắm rửa mua quan
tài, liệm ảnh xong thì chú Bảy vừa tới. Tôi rót một cốc trà, hớp một ngụm và
ngồi lặng thinh.
Trời sụp tối tôi băng
đường tắt lên quán. Quán đóng cửa, Khanh
ngồi gục đầu bên ngọn đèn dầu leo lét. Tôi gõ cửa, Khanh
ngước lên mừng rỡ.
- Cám ơn anh Bảy đến với
em lúc này.
Khanh nấu nước pha
hai ly cà phê đen. Những điều Khanh
kể y chang như những điều đám thằng Lực
kể cho tôi nghe. Khanh khóc tức tưởi, đôi
lúc dừng kể vì nghẹn:
- Anh Bảy anh đã
lớn, em cũng vậy.
Chúng mình đều có gia đình, em xin thề độc
với anh một điều, đêm qua em không có ăn nằm với anh Năm Hoàng. Sự việc xảy ra người ta đồn
Năm Hoàng bị thượng mã phong mà chết.
Từ chiều đến giờ
nhiều người đi ngang chửi đổng vào quán : ‘’
Đồ con dĩ ngựa ! ‘’ Với nhục nhã này làm
sao em sống được đây anh Bảy ơi !
Tôi uống hết ly cà phê và nói với Khanh :
- Anh tin và thông cảm những
điều Khanh nói, ước vọng của Khanh là
vượt thoát ra nước ngoài ! Phấn đấu lên đừng tự ti mặc
cảm về tội lỗi mà mình không hề làm.
Tụi anh đi tù người ta cũng gán cho biết bao
điều xấu xa : Phản quốc,
tay sai đế quốc Mỹ, cướp giựt tài
sản đồng bào, đốt nhà, giết trẻ con,
hãm hiếp phụ nữ… tụi anh cũng phải cắn
răng yên lặng cam chịu đó thôi. Anh tin em thừa can
đảm nghị lực vượt qua.
Tôi đưa tay, Khanh đưa bàn tay
ướt nước mắt siết chặt tay tôi
thật lâu mỉm cười nói :
- Cám ơn anh, em sẽ vượt qua,
một điều em muốn nói thêm cho anh rõ, Năm Hoàng
rất tốt, sỡ dĩ em giữ mối liên lạc vì
Năm Hoàng đang đóng ghe vượt biên.
Một tuần trôi qua, tôi
chở ghe mía vào, quán cà phê ‘’
Đêm màu hồng ‘’ mở cửa trở lại. Dư luận cũng không còn khắt khe
với Khanh vì một lần sau tiệc cưới và
một lần đám giỗ nhà bà tám Khôi ; thằng Lực
một mình chơi hết một lít đế, đứng
lên bàn, nước mắt nước mũi quyện vào
nhau vừa khóc vừa nói :
- Anh Năm Hoàng
người chủ rất tốt, nước mắt này
là của thằng Lực, khóc thương ảnh đó. Còn nói ảnh chết vì thượng mã
phong là không đúng ! Chính tay
tụi này tắm rửa và tẩn liệm cho ảnh mà, con
cu ảnh thụt mất chỉ còn miếng da không hà.
Người chết vì thượng mã phong con cu
cương cứng, dựng đứng như cột
buồm. Con nói, mấy cụ lão ông nghĩ lại xem có
đúng không? Hu! Hu! Hu !.
Nhiều lão ông có dự
trong tiệc cưới và đám giỗ đều gật
gù đồng ý về lối chẩn toán của thằng
lực.
Khách cà phê vẫn đông
như xưa, nhưng đôi mắt cô chủ quán thẫn
thờ, xa vắng không còn long lanh như ngày nào.
‘’ Chém cha
cái kiếp ba đào
Gỡ
ra rồi lại buộc vào như chơi.’’
Sáu Hốt !
Trưởng công an Xã gặp Khanh lần đầu ở
nhà bà Cả Qườn. Suốt cuộc đời chăn
trâu và đi làm cách mạng, Sáu Hốt chưa bao giờ
thấy người đàn bà nào đẹp mê hồn
như Khanh. Hôm đó bà cả Quờn mời Sáu Hốt
đến nhà ăn cơm đồng thời nhờ Sáu
Hốt cấp cho Khanh giấy tạm trú sáu tháng.
Sáu Hốt đồng ý, rút trong ‘’ sà cột ‘’ điền
giấy tạm trú đóng dấu công an
Xã đưa cho Khanh liền. Chữ viết
của Sáu Hốt thật khó đọc và nhiều lỗi
chính tả, nhưng dù sao Khanh cũng yên tâm với tờ
giấy tạm trú.
Sáu Hốt lui tới quán ‘’ Đêm màu hồng ‘’ nhiều lần, tịch thu được bao nhiêu nhạc vàng
đồi trụy, phản động… đều đem
tới cho Khanh lựa.
Vào một đêm mưa, nực nồng
mùi rượu, Sáu Hốt đập cửa quán đốt
nhờ điếu thuốc, nắm tay Khanh và nói :
- Anh thương em lắm
! Nếu chịu làm vợ bé, anh sẽ ghi tên em vào
hợp tác xã, cấp cho em năm công ruộng
! Anh làm luôn cho em, tới mùa anh cho
người chở lúa đến nhà em. Tội
nghiệp anh mà, hơi thở dồn dập của Sáu
Hốt gồm mùi thuốc lá, rượu, thức ăn… dính kẽ răng phả vào mặt làm
Khanh muốn nôn mửa.
Một lần khác, nửa đêm Sáu
Hốt đến gõ cửa báo Công an
quận năm thành phố H.C.M. gởi giấy truy nã Khanh.
Sau hai giờ đẩy đưa để cho Sáu Hốt
hôn tay, sau đó Sáu Hốt gởi trả lại lệnh
truy nã với lời phê : ‘’ Đương sự không có cư ngụ trong Xã.’’
Vụ Năm Hoàng chết trong quán, công an Xã đến điều tra, gọi Khanh
lên trình diện. Sáu Hốt báo cáo lên Huyện ‘’ Đương sự chết
vì trúng gió,’’ sau khi đóng cửa phòng ôm Khanh và nói : ‘’ Thằng
Năm Hoàng chết cũng vừa tội ! Nó
dám dê người yêu của anh. Thằng
nào muốn em, phải buớc qua xác chết của Sáu
Hốt này.’’
Có lần Khanh than với
tôi lo ngại và sợ sự nham nhở của Sáu Hố
quá, có lẽ Khanh phải đi thôi, nhưng chẳng
biết đi đâu.
Hai tuần sau vừa
dọn dẹp đóng cửa quán xong, Khanh ngồi tính
sổ để ngày mai đi Trà Vinh bổ đồ them
bán. Sáu Hốt say nhừ
tử, bước đi nghiêng ngả, sô cửa
bước vào, nồng nặc mùi rượu, lưỡi
liếm môi liên hồi, thều thào :
- Khanh ơi ! Anh
chời đợi và chịu đựng hết nổi rồi ! Tối nay giá nào anh cũng nhập
phòng với em ! Chìu anh nghe
cưng.
Sáu Hốt nhào tới ôm,
Khanh tránh né chạy vòng vòng bàn, nước mắt chảy
thành dòng trên má. Thấm
mệt Sáu Hốt thều thào:
- Anh vô ngủ trước, em vào sau,
nhớ đóng cửa cẩn thận và tắt đèn nghe
em.
Nói xong, Sáu Hốt vén màn,
bước vào buồng và nằm sà xuống giường
chân còn mang đôi dép râu đầy bùn sình, nhơm nhớp.
Khanh nhúng nước khăn lau mặt,
mở rộng cửa quán, vặn đèn to ngọn, quán sang
trưng, bắc ghế ngồi sau bàn pha
cà phê.
Trời về khuya, gió
lạnh từ cánh đồng xa thổi vào, Khanh gục
đầu xuống bàn và ngủ thiếp đi lúc nào không
biết.
Mấy người khách bước vào
và khen :
- Trời lạnh thấy đèn quán sáng
trưng, biết cô mở cửa sớm, dân ghiền cà phê
tụi tui hoan nghênh cô chủ lắm nghen.
Sương sớm vừa tan, mặt
trời lấp ló sau hàng dừa nước bên kia con rạch, khách vào thêm đầy mấy
bàn.
Mấy chú du kích vào quán mua
thuốc hút, chợt thấy đôi chân còn mang dép của Sáu
Hốt ló ra vội thắc mắc.
-Ê ! Chủ quán ông nào
ngủ trong giường bà vậy ?
Khanh tiếp tục pha cà phê không quay
lại trả lời :
-Ông trưởng công an
Xã nhậu sỉn ở đâu, nửa đêm nhẩy
đại vô giường tôi nằm! Báo hại suốt
đêm tôi ngủ gục ngoài bàn pha cà phê!
Mệt và buồn ngủ thấy mồ.
Để lấy lòng, tiểu
đội trưởng du kích lay chân Sáu
Hốt dậy, mời uống cà phê. Anh ta hét lên một
tiếng, mắt trợn dọc vì thân thể Sáu Hốt
cứng đờ, miệng và mũi rỉ máu
! Sáu Hốt đã chết từ lúc nào.
Tin Sáu Hốt trưởng công an Xã chết trên giường quán cà phê ‘’ Đêm màu hồng ‘’ loan
đi như ánh chớp. Vài phút sau dân hiếu kỳ
; già, trẻ, bé, lớn bu chật trong ngoài quán
độ hơn con số trăm.
Ngoài sức tưởng tượng, tai
họa chết người lần thứ hai lại
đến với mình, hai tay bụm lấy mặt, chân
đứng không vững, Khanh ngồi bệt, rũ
xuống đất, đầu tựa vào chân bàn khóc
rấm rức nghẹn ngào.
Du kíck giữ trật tự đuổi
mọi người ra khỏi quán, để nguyên hiện
trường cho công an Huyện xuống
làm việc.
Một giờ sau, xe
Jeep công an Huyện, một xe hồng thập tự
chạy đến đậu trước cửa quán.
Sau một lúc biên chép, lấy lời khai
của Khanh và tiểu đội trưởng du kích,
chụp hình quán trong ngoài với nhiều góc cạnh, xác Sáu
Hốt tím bầm được khiêng ra xe và Khanh bị áp
giải lên xe Jeep về Huyện.
Trăm ngàn ý kiến
được thốt lên lời. Cánh đàn ông: ‘’Vụ này là một án đại
hình vì người chết là cán bộ cấp Trưởng
ngành công an.’’
Cánh đàn bà lao nhao nhóm chợ
‘’Con nhỏ chủ quán này sui
thiệt, có số sát phu, thằng đàn ông con trai nào
đụng đến đều chết trên bụng nó.’’
Một bà sồn sồn, bụng mang
bầu, cao giọng :
- Thượng mã phong này không biết cách
là chết thôi. Hồi xưa mấy bà bới đầu
thường hay dùng móc tai hay lông nhím, ghim giữa búi tóc ! Nếu lúc ăn nằm bị
thượng mã phong người đàn bà nằm
dưới lấy móc tai đâm vào
đốt xương cùng sau đít người đàn ông,
máu phong bầm đen chảy ra là hết.
Cái móc tai là một dụng cụ y khoa
thần kỳ mà bấy lâu nay tôi nghĩ nó chỉ có công dụng : Giữ búi tóc, lấy ráy tai và
xỉa răng.
Một bà nách con, đứng giữa
đám đông lớn tiếng cố ý cho mọi
người cùng nghe :
- Tui nghe mấy bà già xưa kể
lại, có cặp vợ chồng trẻ nọ đang hành
lạc, anh chồng bị thượng mã phong sùi bọt
mép, cô vợ la hoảng và hất ông chồng xuống giường ! Cô chị chạy vào thấy
vậy vội đỡ em rể lên bụng, trật
quần tiếp tục thế cô em, lấy móc tai đâm vào xương khu, em rể thoát
chết. Sau đó hai chị em có chung
một chồng.
Cánh thanh niên vỗ tay cười khoái trá :
- Ai bảo thượng
mã phong là khổ.
Thượng mã phong
sướng lắm chớ.
Cánh con gái đỏ
mặt, nguýt con mắt có đuôi :
- Nghèo mà ham ! Sùi bọt
mép chết bà luôn.
Hôm sau vừa buộc ghe
mía vào thân cây mù u xong, tôi và đám thằng Lực thả
bộ lên quán. Đến nơi tôi đã thấy bà cả
Quờn và hai vợ chồng người giúp việc
đang đứng trong quán.
Bà Cả Quờn hai tay
chắp sau đít, chân bước đi tới lui run run,
mặt tái xanh vì tức giận, bà cầm gậy chỉ
tay về phía cánh đồng hướng trụ sở công
an Huyện :
- Tổ mẹ nó ! Nó làm đĩ
thì đi xứ khác mà làm ! Danh giá ông bà, tổ tiên, giòng
họ nó đem nhận xuống hồ cá vồ. Trời
tru đất diệt mày đi Khanh ơi ! Trận này mày
ở tù rục xương, về đây tao cũng cạo
đầu bôi vôi mày cho ông bà tổ tiên đỡ tủi
hổ.
Bà bước vô quán, tay
quơ giật cái màn cửa buồng xuống đất,
bà ra lệnh cho hai vợ chồng người giúp việc
khiêng chiếc giường tre bông ra sân dùng búa chặt gãy
bốn chân, đạp xẹp xuống, mở họng
đèn con gà, đổ dầu lửa lên và bật hộp
quẹt đốt.
Bà cả Quờn dậm
chân, đay nghiến từng lời :
- Đây là cái
giường tội lỗi, cái giường để mày
làm đĩ, trai trên gái dưới của mày Khanh ơi !
Đốt giường xong tao đốt quán mày luôn !
Trời ơi ! là trời ! ! !
Ngọn lửa phựt
dầu, các thanh tre bông vừa
bén lửa, mọi người kể cả tôi la lớn :
- Có con rắn bò ra.
Con rắn to và dài
bằng nửa chiếc đũa ăn, ba khoang trắng,
đen, đỏ cuống quít bò nhanh ra khỏi đống
lửa.
Ai đó đứng sau
lưng tôi nói :
- Rắn này tên là rắn
chúa nàng, ba khoang cắn ai kể như trời cứu.
Từ nảy giờ
sự việc xẩy ra tôi chỉ biết mở to
mắt, ngạc nhiên đứng nhìn, bây giờ tôi mới
có phản ứng :
- Lực ! Vào quán lấy
cái keo có nắp, bắt con rắn bỏ vào, ra trình công an
Huyện.
Tôi ôm keo rắn, xuống
ghe mía chưa kịp vác lên lò, giựt máy chạy hết
tốc lực ra hướng Uỷ ban Huyện.
Ban chấp pháp đang
quan sát keo rắn, sau khi nghe tôi trình bày diễn tiến
sự việc, đồng thời có công điện pháp y Tỉnh xác
nhận : Trưởng công an Xã Sáu Hốt chết vì nọc
rắn.
Đêm đó công an
Huyện hoàn tất hồ sơ và thả Khanh về.
Từ đó trong làng, khu
đập nhà lầu, không ai còn trông thấy Thụy Khanh, chủ quán cà phê ‘’ Đêm màu hồng ‘’ đâu
nữa.
Hết mùa mía năm đó,
tôi cũng giải nghệ luôn, lo hoàn tất thủ tục
cho cả gia đình sang Hoa Kỳ theo chương trình H.O.
Đời sống ở
Mỹ khác xa ở Việt Nam. Mọi người tất
bật chạy theo kim đồng hồ, bù lại tiền
thu nhập khá cao, sung túc và đầy đủ tự do
của một con người. Các con tôi bước vào
ngưỡng cửa đại học, nếu ở
Việt Nam, với lý lịch của tôi các con tôi có nằm
mơ cũng chẳng bao giờ được vào
đại học.
Tôi cũng
được nguồn vui, xách túi đi du lịch mỗi
năm qua nhiều tiểu bang Hoa Kỳ và bây giờ tôi
đang ở tiểu bang Florida thăm Kim anh bạn dễ
thương cùng đơn vị và gia đình sang Mỹ
cùng một ngày với gia đình tôi.
Cả gia đình Kim ra phi
trường Tampa đón tôi, thật cảm động tình
nghĩa bạn bè.
Thành phố St. Petersburg
tuyệt vời, bãi biển cát trắng phau chạy dài
cuối chân trời. Hàng cây Paltree lá đung đưa theo
gió, thứ cây có lá như mái tóc người da màu chơi
nhạc rap.
Chiếc cầu Skyway chói
chang trong nắng, những sợi dây thép căng, sáng
lấp lánh xa trông như hai chiếc nón lá, tít đằng xa
là sương mù, pha lẫn trời xanh ! Một thứ
không khí mát dịu, trong lành, ai cũng muốn hít thở
căng buồng phổi.
Chúng tôi đi bắt
ghẹ với chiếc vợt to, cán dài nơi cây cầu
gãy độc đáo, chỉ vài giờ chúng tôi vớt
được cả thùng thứ ghẹ to, chắc thịt,
luộc chấm muối tiêu, chanh, hớp cạn lon bia… bao
nhiêu muộn phiền chạy đi đâu mất.
Nằm cạnh nhau lúc
đêm về, sau một ngày đi tàu câu cá ngoài biển, ôn
lại những ngày hiểm nguy chiến đấu, gian lao
tù đày trong các trại hai miền Nam, Bắc và bùi ngùi
thương nhớ nhắc tên từng thằng bạn, ai
còn, ai mất.
Hôm sau cả gia đình
Kim và tôi đi ăn ở nhà hàng cất trên biển Pier, có
lối đi dành cho xe hơi, xe ngựa và người
đi bộ, công viên, nơi tập thể dục, bơi
lội, có lò nướng thịt cho nhiều người
cắm trại.
Ăn xong giữa
cảnh trời nước bao la, gió mát hây hây tôi ngả
người ra ghế đánh một giấc ngon lành.
Kim mời tôi sang thành
phố Tampa, rất đông người Mễ có nông
trại bán bò độc đáo, khách hàng được phát
súng, bắn vào con bò lớn nhỏ tùy mình chọn và có
dụng cụ mổ xẻ tại chỗ, thịt
tươi mang về để tủ lạnh ăn
dần. Tôi cám ơn và từ chối săn bò vì lòng tôi
đã giã từ vũ khí và nguội lạnh căm thù. Vũ
khí thì tàn nhẫn nhưng không biết căm thù, lòng căm
thù còn tàn nhẫn gấp trăm ngàn lần vũ khí.
Tôi đề nghị
trưa nay ra sân bay để trở về tiểu bang
Missouri nơi tôi và gia đình định cư trên
mười năm. Sáng sớm yêu cầu Kim cho tôi ra bãi
biển St. Petebeach, mang cà phê theo uống ngồi ngắm
mặt trời mọc mãi từ xa, tận vịnh Mexico.
Trời yên, biển
lặng, hơi nước mơ phai và mặt trời to
bằng chiếc thuyền thúng màu tròng đỏ trứng
gà, hoành tráng trử tình làm sao, đang từ từ trồi
lên mặt biển.
Tôi hớp một
ngụm cà phê ngon chi lạ, phía sau nhiều tiếng chân
người chạy dọc trên lối đi tráng bằng
cement, cư dân thành phố tập thể dục buổi sáng.
Mặt trời nhô lên
khỏi mặt biển độ một sào, sau lưng tôi
có tiếng người đàn bà Việt Nam.
- Xin lỗi ông ! Có
phải là anh Bảy Ánh không ?
Tôi quay lại, trố
mắt ngạc nhiên và hét to :
- Vâng tôi đây ! Thụy
Khanh đó phải không ?
Người đàn bà
mặc bộ đồ thể thao thung trắng, áo gió
buộc ngang eo, tóc búi cao, nhào tới ôm tôi khóc ngất.
Tôi gỡ tay Khanh ra,
giới thiệu Kim với Khanh, hai người chào nhau.
Khanh đưa tay
lên lau nước mắt cười và hỏi tôi :
- Anh đến Florida
hồi nào ?
- Anh đến đây
thăm gia đình anh Kim, bạn chiến đấu,
bạn tù đã bốn ngày rồi. Sáng nay ra đây ngắm
cảnh mặt trời mọc và hai giờ trưa anh ra phi
trường về tiểu bang Missouri nơi anh ở. Khanh
nắm tay tôi :
- Mời anh và anh Kim
đến nhà em cách đây hai trăm thước, anh em mình
có thật nhiều chuyện kể cho nhau nghe.
Xe dừng trước
nhà Khanh! Một biệt thự to, lộng lẫy thật
nhiều hoa hồng, quay mặt ra biển. Kim trao tôi
chiếc va li, mắt trái nheo nheo rất lém, cười nói
:
- Biết nhà chị Khanh
hôm nào tôi đến thăm bây giờ bàn giao bạn tôi cho
chị và phiền chị đưa bạn tôi ra phi
trường giùm.
Khanh cố mời
nhưng Kim từ chối ra xe vẫy tay cười chào
Khanh và tôi.
Tôi bước vào căn
nhà đẹp, rộng thênh thang trang hoàng kiểu Ý, thảm
màu Bordeaux. Đặc biệt trên tường và những
bàn chạy dài theo vách bằng gỗ mun, trưng bày
nhiều mẫu máy bay đủ loại. Trên vách
tường chính một khung hình thật to chân dung thiếu
tá phi công không lực Hoa Kỳ trong bộ đồ bay,
tươi cười trông thật bảnh trai. Tôi say mê
ngắm mấy chiếc độc bình cổ, những
thanh kiếm Samurai Nhật Bổn và tủ rượu
hằng mấy trăm chai đủ loại, rượu
quý và đắt tiền.
- Mời anh ăn sáng.
Tiếng Khanh vẫn trong trẻo như ngày nào.
- Em đãi anh món nai lúc
lắc. Anh dùng tí rượu vang nhé.
- Khanh đãi gì anh dùng
nấy. Tôi đáp.
Ngồi vào bàn có dịp
quan sát Khanh thật kỹ, những hạt nước còn
vương trên mái tóc chải vội, một phần rũ
xuống che vầng trán. Thời gian thất bại
trước nhan sắc của Khanh, khêu gợi và
đẹp não nùng từ đôi mắt, sang trọng
cuộn mình trong chiếc Kymono màu đọt chuối non.
Khanh nâng ly :
- Mừng cuộc tao
ngộ chúng mình.
Trong lúc ăn Khanh
nhắc đến hàng phượng đỏ và
những bản nhạc
tình bất hủ
trong quán ‘’ Đêm màu bùn ‘’ mà Khanh chết đuối trong
đó.
- Em đi rồi dư
luận bàn tán về em như thế nào ?
Tôi hớp một ngụm
rượu :
- Khách cà phê tiếc
ngẩn ngơ cô chủ xinh đẹp, bà Cả hối
hận vì đã hiểu lầm em, bà tám Khôi mất
trước khi anh đi. Lò đường đóng cửa,
quán của em do hợp tác xã quản lý không có khách đóng
cửa luôn, tới bây giờ người trong làng tội
nghiệp em bị hàm oan, mọi người kể cả
anh không biết em đi đâu.
Khanh thở dài :
- Đời em gian truân lắm anh ơi! Tội nghiệp
anh năm xưa đã ngồi nghe em tâm sự nửa
cuộc đời em, bây giờ không biết anh còn
đủ kiên nhẫn ngồi nghe em kể nốt nửa
cuộc đời thương đau của em sau này không
?
Tôi ái ngại :
- Đã là bạn bè! Quý
anh em mới chia sẻ chuyện đời cùng anh chứ!
Anh nghĩ mình có duyên mới được em tâm sự.
- Cám ơn anh.
Khanh xin phép đốt
thuốc, sau khi mời tôi.
- Cám ơn em, xin cứ
tự nhiên.
Bằng giọng trầm
buồn pha chút rã rời, Khanh vào chuyện :
- Anh thấy đó, em có
hai tật xấu: uống rượu và hút thuốc.
Nửa đêm thức giấc, một mình trong căn nhà
rộng thênh thang này ! Không có ly rượu và điếu
thuốc chắc em đã tự treo cổ mình từ
mấy năm nay rồi.
Vâng, em sẽ kể
tiếp quãng đường còn lại cho anh nghe.
Đêm đó công an
Huyện thả ra, em vừa đi vừa chạy vấp
té mấy lần. Lúc đó hình ảnh anh ôm keo rắn, tóc
tai bù sù, chạy ra trình công an Huyện để minh oan cho
em, trong nỗi cô đơn tuyệt vọng, hình ảnh
đó đã làm tim em thổn thức qua song sắt phòng giam.
Em phải rời đi ngay vì không sớm thì muộn công an
Huyện cũng biết em có lệnh truy nã. Về tới
quán em đào dưới chân giường lấy lên
mười chỉ vàng, quơ vội chiếc áo ấm em
trở ra đường cái, đón xe lên tỉnh ở
nhờ bà chủ tạp hóa em thường bổ
đồ. Em trao hết số vàng cho bà, yêu cầu bà móc
nối ghe cho em đi, thoát được còn thiếu bao
nhiêu em sẽ gởi về trả cho bà. Gặp
người tốt và may mắn một tuần sau em
tới đảo Paulo Bidong an toàn. Biết tiếng anh cùng
một vài người nữa chúng em ở trong toán thông
dịch cho trại.
Chỉ tay về khung
ảnh thiếu tá Không quân treo trên tường, Khanh
tiếp :
- Robert Oliver sĩ quan tùy
viên quân sự, đặc trách phỏng vấn quân nhân Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa. Lần đầu gặp em
Bob say mê ngay. Sau mấy lần ngỏ lời xin
cưới em, lúc đó tâm trạng em rã rời về
những điều xảy ra ở Việt Nam, một mình
thân gái xứ người rồi sẽ ra sao đây ? Em
bằng lòng. Một đám cưới gọn nhưng trang
trọng tất cả nhân viên tòa đại sứ Mỹ
ở Mã Lai đều đến tham dự.
Một tháng sau ngày
cưới, em mặc áo màu hồng, tay cầm tấm
ảnh em và Bob chụp ngày cưới để cha mẹ
Bob ra đón con dâu Việt Nam bước xuống phi trường
Tampa Florida.
Gia đình Bob thật giàu
có, mười mẫu trồng cây ăn trái đủ
loại bốn mùa, năm biệt thự và nhiều shop bán
trái cây tươi đi các tiểu bang và du khách đến
Petersburg.
Nửa năm sau Bob
giải ngũ; về cai quản cơ ngơi. Hai năm
sau cha mẹ Bob lần lượt qua đời. Tụi em
có với nhau đứa con trai tên Robert J. Carter.
Bob say mê lái máy bay vô cùng. Bob bán bớt
một biệt thự để mua máy bay, cuối tuần
lái tà tà bay trên biển. Mẹ con em riết rồi cũng
thích ngồi máy bay đi khắp các tiểu bang của
Mỹ.
Tháng bảy này đúng hai năm, em
mắc bận ở nhà điều động nhân viên
đóng gấp mấy trăm kiện trái cây gởi gấp
qua Texas, hai cha con đi bay, khoảng mười giờ sáng,
sau một giờ cất cánh, máy bay nổ không tìm
được xác máy bay lẫn người trên biển.
Sau này em được biết do sự thanh toán vì bất
đồng ý kiến giữa Bob và một số
người có phần hùng trong đội bóng cà na
Những ngày sau đó em như điên dại ! Bỗng chốc mất chồng
mất con ! Số phần nghiệt ngã
cứ theo em mãi. Nói chuyện cho tôi nghe,
Khanh đốt thuốc liền tay.
Do Khanh hỏi tôi nói về phần mình.
- Gia đình anh sang Mỹ trên tám năm theo diện H.O. Anh chị có bốn cháu, ba
trai một gái, hai đứa lớn đi làm hai đứa
nhỏ đi học. Anh chị đi làm hãng
gần nhà, cuộc sống tạm ổn định.
- Anh chị hạnh phúc quá. Khanh thì
thầm như cơn gió thoảng.
Khanh đề nghị chở tôi ra nhà hàng
ăn trưa. Tôi từ
chối vì còn no, thích ngồi đây nghe Khanh nói chuyện.
Khanh gói cho tôi hai chai rượu, lái xe đưa tôi ra shop trái cây đông lạnh.
Khanh mang ra xe một thùng mãng cầu dai,
một thùng nhãn làm quà cho vợ tôi và mấy đứa
nhỏ.
Khanh đưa tôi ra sân bay sớm vì khám
xét hành lý rất lâu, sợ nạn khủng bố.
Đến phi trường
mọi thủ tục Khanh dành làm hết, tôi đứng yên
nhìn và cảm động vô cùng.
Hành khách bắt đầu lên máy bay, tôi
chìa tay ra bắt tay Khanh nói lời
cảm ơn, từ giã. Khanh cắn môi xúc động, nén
khóc, ôm chầm lấy tôi hôn, thì thầm bên tai,
hơi thở thơm tho của Khanh phả vào mặt làm
tôi ngây ngất.
Khanh đứng nhìn theo
đến khi tôi đi khuất. Vào ghế ngồi, nhớ
gương mặt xúc động và câu nói thì thầm
của Khanh khi từ giã :
-Phải chi anh có một mình sang đây
sống suốt đời còn lại với em. Em cho anh
ngủ giường nệm kingsize chứ không phải
giường tre bông đâu mà sợ !!!
Tôi nghe ớn lạnh chạy dài theo
sống lưng, nhìn xuống thấy tay mình nổi da gà. Tôi
kéo mềm đắp ngang ngực, hình ảnh Khanh cắn
môi, gương mặt ràn rụa nước mắt theo tôi suốt chuyến bay.
Mấy lần tôi cố chợp mắt
nhưng không tài nào ngủ được, thân tàu rung nhè
nhẹ, nhìn qua cửa kính tôi thấy máy bay đang trôi vào
vùng mênh mông mây trắng./.
Tường
Lam