Tường Lam
THẰNG
LỌ NỒI
Bà Ba Tầm Vung! Cái tên mà toàn thể cư dân già, trẻ, bé, lớn
đều biết trong ngôi làng bé nhỏ và nghèo nàn nầy,
huê lợi chánh của làng là chằm lá lợp nhà, đan
thúng rổ, còn lúa làm ra không đủ ăn đến giáp
hạt.
Vì ghiền ăn
trầu, lúc sồn sồn khi bác Ba trai đi đốn lá
mướn, vướng lựu đạn không biết bên
nào gài, chết một cách thảm thương, bác chết
với đôi mắt mở trừng trừng! Hình như bác ngạc nhiên, một nguời dân
thật thà chất phác như bác tại sao phải chết
không toàn thây?!
Thương
nhớ bác trai. Bác Ba Tầm Vung nhai trầu
suốt ngày. Bác chỉ có một mụn con gái.
Thắm đã lớn, mười tám tuổi lớn
xộn rồi còn gì! Thắm có làn da bánh
mật, nâu giòn, không đẹp lắm nhưng rất có
duyên. Thắm đi chằm lá mướn, siêng năng
và nhanh tay, cọng lạt đâm xuống
rút lên thoăn thoắt. Tiền chằm lá tính bằng thiên
của Thắm bao giờ cũng vượt trội
hơn bạn bè.
Gia tài bác Ba trai
để lại cho hai mẹ con chỉ vỏn vẹn
một công rưỡi đất và một căn nhà
nhỏ cột dừa lão bào nhẳn kê tán đá chẻ.
Vì ghiền
trầu, diện tích đất nhỏ nhoi như thế
bác Ba Tầm Vung chỉ trồng cau, trên ba chục nọc
trầu vàng sà lẹt và cuối vườn có một cây
sứ già đêm đêm thơm sực nức cả khu
vườn, loại sứ có bông nở thành chùm vàng như
sơ cái mít nghệ. Thắm thường hái bông sứ
bỏ vào keo dầu dừa còn nóng, thoa lên tóc mùi hương
sứ thơm thơm dịu dàng. Nhìn mình trong gương Thắm tự tấm
tắc khen thầm về nhan sắc của mình.
Còn cái tên Tầm
Vung mà mọi người đặt cho bác số là thế
nầy: những buồng cau sai, to trái có lái hàng tháng trèo
bẻ mua hết, chở lên tỉnh hoặc Sàigòn bán. Những buồng cao đẹt thưa trái, lái
không mua, quá lứa cau già trổ màu đỏ gạch và
dần dà rụng xuống đất, bỏ đi thì
uổng bác Ba lượm vào cau đỏ gọi là cau
tầm vung. Bóc vỏ ruột màu nâu to
bằng trứng sáo, cứng quá nhai không nổi, bác Ba
lấy đinh đóng lên đáy lon sữa bò làm bàn mài.
Ruột cau tầm vung mài ra có màu nâu sẵm
như mạt cưa, trầu vàng têm lên một lớp vôi,
rắc một ít bột cau mài, cuốn lại bác Ba có
một miếng trầu thật gọn rất vừa
miệng nhai.
Mấy ngày
đầu với miếng trầu gói cao tầm vung bác Ba
ăn nghe chát gắt, dần dà bà cảm thấy
hương vị cau tầm vung thật đậm đà,
hợp với khẩu vị của người nhai
trầu lâu năm như bác! Một thứ Basto Xanh của
cánh đàn ông sành thuốc lá, đâm ra bác Ba ghiền và theo thời gian bác Ba chỉ ăn trầu
với cau tầm vung mà thôi. Mấy bà già
trầu đặt tên bà Ba Tầm Vung, mọi người
đều gọi tên ấy, lâu ngày chết tên luôn.
Gần đây có
nhiều người cậy mai mối đến muốn
hỏi con Thắm về làm dâu nhà người ta, con Thắm ngún nguẩy, giậm chân
phản đối. Thực tâm nó chưa muốn lấy
chồng, bác Ba làm thinh nhưng tận sâu trong lòng bác
muốn có con Thắm luôn ở cạnh bác hủ hỉ
trong tuổi chiều xế bóng.
Thế
rồi một chuyện xảy ra như trời long
đất lở, bác nằm quẹp mấy ngày liền,
không cơm nước chỉ nhai trầu cầm hơi. Suốt ngày đó
không thấy con Thắm, ngày hôm sau cũng chẳng thấy
về nhà. Vào khạp xúc gạo nấu cơm, bác thấy
tờ giấy học trò, tuồng chữ đích thực
là của con Thắm, bác xách thơ chạy sang nhà hàng xóm
đọc giùm:
Phong Nẩm, ngày 10
tháng 7 năm 1964
Má thương
mến!
Con là Thắm xin
cúi đầu lạy má tha lỗi cho con khi bỏ nhà ra
đi đường đột mà không báo trước cho
má biết.
Con đi xa thử
thời vận, nếu làm ăn nên, có
nhiều tiền con sẽ trở về sống bên má, làm
sao mẹ con mình cất đầu lên nổi với
mấy chục gốc cau trầu.
Một lần
nữa xin cúi lại má tha tội bất hiếu của
con, cầu mong Trời Phật và vong hồn ba linh thiêng phù
hộ cho con ra đi được vuông tròn ý nguyện.
Xin má
giữ gìn sức khỏe, hy vọng ngày con về hủ
hỉ bên má không xa.
Con hun má.
Thắm
Nghe đọc xong
thư, mấy cây xoài trước nhà hàng xóm quay mòng mòng, bác
Ba ngồi phệt xuống chiếc giường tre, hai bàn
tay bưng lấy gò má nhăn nheo đã trổ đồi
mồi và nước mắt tuôn thành dòng.
Từ đó trong
căn nhà lá quạnh hiu, ít ăn hiếm nói, miệng
bỏm bẻm nhai trầu, chưa nhả miếng nầy,
bác đã têm miếng khác, rắc nhiều bột cau tầm
vung hơn.
Có người nói lại, sáng sớm hôm đó thấy Thắm
đi với con Ðẹt, con Hai Ngưu xóm trên. Nghe đâu con
Ðẹt đi bán bar ngoài Vũng Tàu. Lần nào
về thăm cũng mang thuốc lá, rượu, bôm, nho và
nhiều tiền cho hai vợ chồng Hai Ngưu, cất
nhà và sắm bàn ghế trong nhà hực hở. Ðẹt và Thắm là bạn học cùng lớp
nhứt trường xã năm xưa.
Thời
gian trôi đi lặng lẽ, mỗi chiều bác Ba ngồi
trên ngạch cửa, tựa đầu vào cột, mặt
hướng ra đường trông ngóng hình bóng con gái mình
mỏi mòn.
Ðêm đêm nằm bác lấy chiếc áo Thắm
thường mặc để lên mũi ngửi để
nhớ con gái mình, người máu mủ duy nhứt của
bác trên cõi đời nầy.
Nửa năm sau,
gia đình hai Ngưu sai con mang cho bác một phong thư
dầy cộm, trong đó tấm hình Thắm mặc váy hoa,
vai mang bóp đầm, mắt kiếng đen to tròng và một
xấp tiền bác đếm được năm
chục ngàn đồng.
Bác Ba mừng quá
đỗi, một phần số tiền quá lớn,
từ nhỏ đến giờ bác mới cầm
được trong tay, một phần vì tấm hình con
Thắm. Bác săm soi nhìn ngắm mỗi ngày, thấy con gái
mình trưởng thành, đẹp đẻ và sang trọng,
khác xa một trời một vực hình ảnh con Thắm
ngồi trên chiếu rách, tay thoăn thoắt rút từng
mối lạt trong những ngày chằm lá mướn.
Sau
đó, mỗi năm mấy lần Thắm đều
gửi tiền về cho bà và hứa hẹn sẽ trở
về sống bên mẹ bao giờ có thật nhiều
tiền.
Bây giờ bác Ba khỏi băn khoăn về
cuộc sống cuối đời của mình, chỉ còn
nỗi sầu đơn lẻ và nhớ con luôn canh cánh bên
lòng.
Thế rồi
khuya hôm đó, một đêm tối trời, cách ngày
Thắm bỏ nhà ra đi độ ba năm, bác Ba đang
ngon giấc bỗng nghe tiếng gõ cửa:
- Má ơi! Còn thức không? Con gái về thăm má
đây!
Nghe tiếng
Thắm bác Ba mừng cuống cuồng, khêu cao tim ngọn đèn dầu trứng vịt
bước ra mở cửa.
Thắm lách mình
bước nhanh vào, tay ôm đứa bé
quấn trong khăn bàn trắng lớn, tay mang túi xách ló ra
bình sữa, bác Ba mừng quýnh:
- Mồ tổ
mầy đi đâu biệt tích! Má nhớ con quá chừng!
Con của ai
đây?!
Thắm
sượng sùng nhỏ giọng:
- Dạ con của
con.
Bác Ba hé chéo
khăn, miệng há hốc, mắt sửng sờ, một
hài nhi đen như táo tàu đang ngọa
ngoậy, mắt nhắm nghiền.
Bác Ba run run:
- Mầy lấy
Mỹ đen hả Thắm?
Nói
xong bác ngồi bệt xuống bộ ván, đầu cúi
xuống ngoẹo bên vai và buông tiếng thở dài.
Thắm
đặt con nằm xuống, ôm mẹ và nói trong
nước mắt:
- Mọi chuyện
lỡ rồi! Má tha lỗi cho con, vì ham tiền và ba nó là
đại úy bác sĩ Quân Y.
Bác Ba la lớn:
- Không có bác sĩ,
lòi sỉ gì cả! Tao ăn nói làm sao
đây và còn mặt mũi nào nhìn xóm giềng, cô bác với
con ''Lọ Nồi'' nầy! Thắm ơi là Thắm!
Trời chưa
sáng Thắm vào ôm mẹ! Quì xuống
đất lạy bà xin nuôi giùm con. Thắm
nhét dưới gối bà một số tiền. Khóc, ôm hôn con và mở cửa bước ra
khuất mình trong đêm tối.
Tuần lễ
đầu tiên bác vô cùng lúng túng với thằng bé,
được một cái biết thân bú no là ngủ, không
ọ ọe gì cả. Bà con tìm cách đến nhà hỏi
chuyện nầy nọ, nhưng mục đích chính của
họ tìm xem dung nhan thằng Lọ Nồi ra sao.
Người bàn ra
kẻ tán vào, riết rồi không còn chuyện gì để
nói! Con của Thắm, cháu ngoại bác Ba mà mọi
người đã quen gọi là thằng Lọ Nồi.
Gần gũi sớm hôm, nuôi riết rồi cũng
mến tay mến chân, có lần bác thấy thương
thằng Lọ Nồi vô cùng. Nó vừa thức dậy,
ọ ọe đòi bú, bác Ba đưa tay nựng nhẹ gò
má, nó ôm ngón tay bác núc nhưng vội buông ra vì cay mùi vôi, vì
mấy ngón tay bác vừa tém nước cổ trầu trên
môi. Ðưa bình sữa thằng Lọ Nồi liền
chụp bằng hai tay đưa lên
miệng núc lấy được và vui cười.
Thằng Lọ Nồi đã mọc răng, biết đi
lẫm đẫm, bác thường dẫn nó theo
ra sau vườn, một già một trẻ cùng lượm
cao tầm vung. Nó lớn như thổi, quanh năm
chẳng đau bịnh gì, bỏ sữa bắt đầu
ăn cơm nhão trộn với cá kho.
Bây
giờ thằng Lọ Nồi là nguồn vui của bác,
tối tối hai bà cháu ôm nhau ngủ hạnh phúc đâu phân
biệt, lựa chọn màu da.
Khi
thằng Lọ Nồi biết nói, bác tập nó kêu
''Ngoại ơi!'' Tiếng nó cao trong vắt,
khỏe nghe dễ thương chi lạ. Thằng
Lọ Nồi lớn lên trong yêu thương cùng lời hát ru của bác, trong căn nhà lá nhỏ bé
thỉnh thoảng đệm bằng tiếng cau tầm
vung rơi rụng sau hè.
Mấy
lúc sau nầy Thắm không gửi tiền, tiền mấy
lần trước bác còn để dành được chút
đỉnh, cộng thêm tiền bán cau trầu bác và
thằng Lọ Nồi sống đắp đổi qua
ngày không đến nỗi nào.
Buổi trưa
nọ, một chiếc xe Mazda chở
khách nhỏ ngừng trước nhà, tài xế và lơ
khiêng trên băng ca một người thân thể phủ
kín mền chỉ chừa đôi mắt, Ðẹt đi sau.
Phụ đỡ
người bệnh lên ván, Ðẹt nói với bác:
- Chế Thắm
yếu lắm! Giây phút cuối đời muốn về
thấy mặt bác và con mới yên lòng ra đi.
Bác hỏi mãi xem
Thắm mắc bịnh gì mà trầm trọng như
thế, bác hỏi dồn dập mấy lượt
Ðẹt mới cho biết: Thắm bị lây bệnh
''Củ Sâm'' của Ðại Hàn.
Uống xong ly
nước, Ðẹt chào bác Ba, bẹo má thằng Lọ
Nồi, cúi xuống hôn Thắm và quẹt nước
mắt ra đi! Chiếc xe lao đi
khuất sau hàng bông bụp còn vươn lại làn khói
trắng.
Phần
thương con, phần lo cho cháu, bác Ba bận rộn
suốt ngày, không có giờ ngơi nghỉ. Ai mách thuốc gia
truyền, điềm chỉ thầy thuốc Bắc, Nam
nào tài ba, bác đều đi rước đến nhà xem
mạch và hốt thuốc cho Thắm. Bịnh tình của
Thắm càng ngày càng trầm trọng, thân xác gầy gò,
khẳng khiu như một que diêm.
Ðã hai ngày không
ăn uống gì Thắm gượng ngồi dậy,
lấy từ va li da một tấm hình cỡ mười
tám hăm bốn, trong đó Thắm mặc áo dài hở
cổ, đeo xâu chuỗi hạt trai, tươi
cười đứng bên một sĩ quan da đen, trên
cổ có đeo hai vệt trắng, giống như số
hai La Mã, như hai vết vôi bác Ba quẹt trên vách để
nhớ hai buồng cau mà khách hàng còn nợ. Thắm cố
gắng thì thào trao khung hình và nói với mẹ:
- Con và
Nói xong nắm tay mẹ, tay kia nắm tay thằng Lọ
Nồi và trên gò má trơ xương của Thắm hai hàng
lệ lửng lờ chảy xuống. Khuya
đêm đó Thắm lặng lẽ lìa đời.
Bác Ba
đứt từng đoạt ruột khi người ta
đắp đất lên quan tài Thắm và cho đến bây
giờ cái củ có rễ như cây thuốc thường được ngâm trong keo
thủy tinh, gọi là củ sâm, một loại thuốc
khỏe, thế sao lại giết chết Thắm? Ðứa
con gái duy nhứt mà bác yêu thương hơn bản thân.
Ðiều thắc mắc đó cứ lởn
vởn mãi trong đầu óc chất phác và quê mùa của bác.
Thời gian
lặng lẽ qua đi, thằng Lọ Nồi nhổ giò
lớn xộn! Thường thay bà
lượm cau tầm vung rơi rụng cạnh mộ ông
ngoại và mẹ mình.
* * *
Ngày Ba Mươi
Tháng Tư Năm Bảy Lăm, ngày trời sập, ngày tan
đàn rã nghé, ngày đứt phim, ngày khổ đau tận
cùng của người dân miền
- Ham đô la cho con
lấy Mỹ, kẻ thù không đội trời chung, thằng Lọ Nồi là cặn bã xã
hội, cha nó mang nhiều nợ máu với dân tộc
Việt
Ðêm về hai bà cháu
ôm nhau khóc thầm, nó ôm hôn bà! Nước mắt bà làm
mặn môi nó! Khổ đau đều
giống nhau thôi.
Bốn
năm sau thằng Lọ Nồi bị đuổi học
vì phạm kỷ luật của trường, đánh
lộn nhiều lần. Tội đánh lộn
không oan cho thằng Lọ Nồi. Một tuần
lễ ít nhứt là nó đánh lộn hai ba lần, nó không
muốn ai kêu nó là thằng Lọ Nồi, trong khi khai sanh
của nó ghi rõ ràng: Lưu Văn Lọ, cha vô danh, mẹ Lưu
Thị Thắm. Nó tên Lọ ai thêm chữ Nồi vào, nó nhào
vô ăn thua đủ. Tan học về
cùng chúng bạn trên một đoạn đường, có
thằng gọi: ''Ê! Lọ Nồi'', nó nhào tới không
kể thân, đôi khi nó bị bề hội đồng
gần cả chục thằng! Mặt mày
trầy sướt, bầm tím, áo quần rách túi, sứt
nút và đôi khi chỉ còn một chiếc dép. Nhưng nguyên nhân sâu xa nhứt để thằng
Lọ bị đuổi học là ba nó Ðế Quốc
Mỹ xâm lược.
Mới
mười ba tuổi nó cao một thước sáu
mươi lăm, nặng năm mươi lăm ký, ngoài
tình yêu thương bà ngoại nó còn một điều
đam mê nhứt là đá banh. Hồi còn đi học
từ nhà đến trường khoảng một cây
số, hàng xóm và bạn học ngạc nhiên khi mỗi sáng
ôm cặp rời khỏi nhà, nó luôn luôn đá lon sữa bò
lửng tửng theo bước chân
đi. Có khi cả năm phút lon chưa
rới xuống đất. Có người thắc
mắc nó cho biết theo thầy giáo
của nó nói lại: Ngày xưa Pelé mỗi sáng đến
trường cũng đá lon sữa bò và may mắn lọt
vào mắt nhà nghề của một ông thầy đá banh. Sau đó Pelé trở thành hòn ngọc đen, Cầu
Vương có đôi chân vàng của làng bóng đá thế
giới.
Nghỉ học,
để có tiền phụ giúp với bà ngoại,
thằng Lọ Nồi đi đốn lá mướn, làm
đất, leo dừa, vác mía ở lò đường... Công việc cực nhọc là thế.
Chiều nào về tới nhà ăn ít cơm nguội, xách theo bình nước mưa ra miếng
đất trống gần nghĩa trang xã đá banh cùng
chúng bạn. Nó nhờ người đi tỉnh mua giùm nó
sách hướng dẫn về bóng đá, nghệ thuật
nhồi bóng để cùng bạn bè học hỏi.
Ðo
kích thước dọc ngang cầu môn, sân bãi. Ðám
mê đá banh tụi nó đốn bốn cây đủng
đỉnh làm trụ cho hai khuôn thành, gác hai khúc tre gai làm xà
ngang, bỏ ra suốt một ngày, giẫy và lắp
bằng mấy lỗ chân trâu, mặt sân bằng phẳng.
Thằng
Lọ Nồi hiên ngang ra lệnh không ai được
quyền thả trâu đi trên sân banh. Lịnh
được thi hành tuyệt đối vì đa số
dân chăn trâu là cầu thủ đàn em trong đội bóng
của nó.
Một
điều kỳ lạ xảy ra, không biết tại
nhờ tướng cao lớn khỏe mạnh, những
bắt thịt chân tay cuồn cuộn chắc nịch, bóng
láng, thân hình như một khối đồng đen,
cộng thêm cách ăn nói chững chạc đã khiến
mọi người giờ đây chỉ gọi nó là
thằng Lọ, anh Lọ, chứ không còn kèm theo chữ
''Nồi'' đàng sau.
Không
được đề cử hoặc bầu bán gì
cả, nhưng thanh niên trong xã đương nhiên chấp
nhận ngầm thằng Lọ là Ðội Trưởng Bóng
Ðá Xã Phong Nẩm. Dưới sự hướng dẫn
của nó, tất cả cầu thủ đúng bốn
giờ mỗi chiều ra sân phải chạy hai vòng
để khởi động. Mỗi ngày
bất kể thời tiết nắng mưa, đội
bóng phải ra sân tập luyện, cầu thủ trên hai
chục đứa. Thằng Lọ chia
hai đội tập luyện thi đấu mỗi ngày,
tất cả đều hân hoan phấn khởi và bớt
đi những độ nhậu say sưa tốn kém vô ích.
Ðội mặc
quần cụt đen áo thun ba lỗ nhuộm đen,
đội kia quần cụt đen, áo
thun ba lỗ trắng. Áo quần tự túc đá chân không, ai
không ăn mặc đúng qui định
không được vào sân. Lịnh của
thằng Lọ như đinh đóng cột.
Những
hôm lãnh tiền làm mướn, Lọ đều mang ra
một số nước đá chanh đường
hoặc mía thanh diệu để các cầu thủ
giải khát.
Xã hẻo lánh và
nghèo, phương tiện giải trí không có nên hôm nào
trời đẹp cũng có vài chục khán giả,
đặc biệt hôm nào có cô Ba Diệu và đám đệ
tử học may ra xem hai đội tập dượt, các
đấu thủ thi đấu thật mát mắt.
Nhứt là thằng Lọ như một con xích thố
tả đột hữu xông, chạy bao sân và những cú
sút từ xa banh vào khung thành đối phương liên
tục, những cú đội đầu tuyệt vời
của nó đã làm cô Ba Diệu và đám đệ tử
vỗ tay rôm rả.
Nghe tiếng
đội bóng của Lọ, đội bóng xã Mỹ Lòng
mời đội bóng Phong Nẩm đá giao hữu, ủng
hộ viên tháp tùng đội bóng thật đông, kể cả
cô Ba Diệu và đám đệ tử. Kết
quả Phong Nẩm hạ Mỹ Lòng 3-1 đã làm cho mọi
người trong xã nở mày, nở mặt và nể
trọng đội bóng con cưng vô cùng.
Sở
trường của thằng Lọ, dẫn banh điêu
luyện thần tốc, chạy nhanh như ngựa,
đối phương khó truy cản, chiều cao như
cây niêu, cú đội đầu chọc thủng
lưới khung thành đội bạn, hình như nó
độc diễn và những cú sút phạt đền
mạnh thần sầu, xẹt như tên bắn, thủ
môn đang ngơ ngác đứng nhìn banh tung lưới...
Bàn chân thẳng song song với mặt đất, chân
vịt với mũi chân đi trước phối hợp
với mặt phải phán đoán thật nhanh, thông minh
điều chỉnh tí xíu mũi bàn chân về hướng
trái phải, nhìn thủ môn xuống tấn bên nào, Lọ tung
mình sút cú sấm sét và đa số banh đều nằm
gọn trong lưới đội bạn.
Cú sút phạt
đền là độc quyền của thằng Lọ. Trên
khán đài nhiều lần vỗ tay hoan
hô đội nhà, cô Ba Diệu thường cười khoái
trá. Nói lớn với đám đệ tử:
- Chế mê cú
đá phạt đền của anh Lọ quá!
Ðội
Phong Nẩm lần lượt hạ Nhơn Thạnh 2-0;
Lương Quới 5-1; Sơn Ðốc 4-2; huyện lỵ
Giồng Trôm 3-1. Các cầu thủ và Lọ
được mọi người yêu thương và càng
thêm nể phục.
Thời
gian qua mau, năm nay Lọ đã mười tám, một
thanh niên trổ mã, nếu bỏ đi đôi môi hơi
dầy, nước da ''cột nhà cháy''. Ðặc biệt
hai hàm răng của nó thật trắng và đều,
ngoại hình tráng kiện cao ráo Lọ là một thanh niên
đẹp trên trung bình,
Mùa hè
nầy, được xã đề nghị và huyện
chấp thuận cho Lọ lên tỉnh tập huấn
về bóng đá một tháng. Trước khi
đi Lọ nhờ đám đàn em lần lượt thay
phiên nhau mỗi đêm đến ngủ với bà ngoại
phòng khi bà đau yếu.
Không phải chánh
quyền có tấm lòng ''đại bác'' ưu ái thằng
Lọ. Cơm ghe bè bạn, bỏ nhà bỏ cửa lên
tỉnh tập huấn một tháng tự túc. Môn nầy
nhân viên nhà nước chê vì tốn kém, mệt mỏi và
không hứng thú gì, tội gì ăn cơm nhà đi vác ngà voi,
cho thằng Lọ đi vì nó mê và có khả năng về
bóng đá, đồng thời chính quyền xã
được hai điều lợi: tuyên truyền
bịp bợm về chánh sách, Ðảng và Nhà Nước
không phân biệt thành phần xã hội.
Xã Phong Nẩm
được mọi người nhắc nhở nổi
tiếng nhờ đội bóng đá của thằng
Lọ! Dân chúng vui vẻ ủng hộ, thành tích đội
bóng, hy vọng họ sẽ sớm quên đi chuyện
xảy ra cách đây mười tháng có cả chính quyền
huyện và tỉnh xuống dự lễ khánh thành cây
cầu bê tông cốt sắt bắt ngang con kinh lớn.
Trưa hôm kia một ghe bầu chở lá
lợp nhà đụng vào trụ cầu sập lòi ra bên
trong thay vì bốn cây sắt to bằng ngón chân cái làm nòng.
Ðàng nầy người dân trong xã chỉ thấy có hai cây
bằng sắt, còn lại hai cây kia thay
sắt bằng cây tầm vông làm nòng mà thôi. Dân
chúng chửi quá xá, mọi người kể cả học
trò hai buổi lội sình, chuyền bập lá như những
năm chiến tranh chống Mỹ cứu nước.
Sau
một tháng tập huấn, tham dự thi đấu hai
lần, Lọ trở về với bằng khen xuất
sắc trong học tập. Lọ chọn đội hình 10-1
lối chơi tổng hợp của đội Hòa Lan,
sử dụng tổng lực công thủ lên mười
xuống mười, đã gây mưa gió, bão táp trên các
cầu trường Âu Châu. Áp dụng đội hình
nầy cầu thủ phải có thể lực sung mãn
để chịu đựng suốt 90 phút thi đấu.
Lọ rất yên tâm về cầu thủ
của đội mình, chăn trâu, làm đất,
đốn cây... nên thể lực rất tốt.
Ðể gây quỹ
cho đội banh, toàn thể đội bóng chánh thức
hay dự bị bỏ ra nửa tháng công làm đất
bồi vườn cho năm mẫu trồng cam quít của
bác Chín Ngãi, nghe nói do mấy đứa con vượt biên
năm bảy mươi lăm bí mật gửi tiền
về.
Ðất
bác Chín Ngãi giáp ranh nhà cô Ba Diệu, mỗi ngày sau khi đi
làm mướn về. Lọ cố gắng
để nhìn thấy mặt cô Ba Diệu một lần.
Mấy đứa đệ tử của
Lọ cũng có nhiều thằng khoái mấy đứa
học trò của cô Ba Diệu ra mặt.
Trong những
lần họp đội banh, Lọ trình bày những
điều mới lạ, học hỏi trong một tháng
tập huấn: về đội hình, chiến thuật,
kỹ thuật, tốc độ nhứt là thể
lực. Theo ý nó đội banh muốn phát triển, thi
đấu chủ lực, cầu thủ phải đá bóng
bằng giày! Dù chỉ là đội bóng xã,
tất cả đều đồng ý sử dụng
tiền làm đất mướn để trang bị giày
và áo quần cho đội bóng.
Mang
giày vào các cầu thủ lấy làm tự hào, tập
dượt chuyên cần với kỷ luật sắt
của Lọ, nhưng trong tình anh em đam mê bóng đá.
Ðội banh cũng
được tăng cường một trọng tài có
kinh nghiệm cầm còi trước đây cho trung tâm
huấn luyện có dãy núi Cấm Ông Két vây quanh: chú Tư Ðiền
là trung úy chế độ cũ, gia đình ở Sàigòn
bị bắt đi vùng kinh tế mới xã Phong Nẩm.
Có lần trong
bữa nhậu nói chuyện tiếu lâm chú Tư Ðiền
kể:
- Trên mặt bàn làm
bằng gỗ kiểu bàn học trò, để khóa sinh ghi
chép trong những buổi dạy về các môn học
địa hình, vũ khí v.v.... Một số khóa sinh có đầu
óc tiếu lâm thường ghi những câu thơ lưu
niệm lên mặt bàn giải bày tâm sự để
lại cho các khóa đàn em, đại khái:
Em ơi! đừng
lấy pháo binh
Ðêm đêm nó bắn rung rinh cái giường
Hoặc:
Rớt tú tài anh đi trung sĩ
Em ở nhà lấy Mỹ nuôi con
Mai nầy xong
việc nước non
Anh về anh có
Mỹ con anh bồng
Nhưng
có hai câu thơ sau đây tả thực vô cùng, nếu nhà
văn Vũ Trọng Phụng sống lại cũng
chắp tay bái phục:
Thất Sơn
bảy núi âm u
Anh đi thụ huấn con... c... nhịn thèm
Trong ba tháng
trời kiên trì tập luyện, với đội hình
tổng lực lên mười xuống mười của
Hòa Lan, đội bóng xã Phong Nẩm lần lượt
hạ đội Mỹ Lòng, Lương Quới,
Lương Hòa, Lương Phú, huyện lỵ Giồng Trôm
để trở thành đội bóng vô địch
huyện.
Các
cầu thủ và khán giả trên sân, suốt chín mươi
phút say mê đội bóng xã Phong Nẩm lên xuống nhịp
nhàng, tấn công vũ bão, phòng vệ chắc chắn, luôn
luôn chiến thắng với tỷ số đè bẹp
đối phương. Ðồng có chung
một ý kiến như một vị khán giả lão thành râu
tóc bạc phơ:
- Tụi nó
nhồi bóng tuyệt vời quá! Tao chịu và khoái lắm!
Suốt trận tụi nó chạy lên chạy xuống
như trâu điên! Thấy mà thương !
Danh sách chánh
thức của đội bóng gồm:
- Rở: Thủ
Môn, đã từng làm mướn theo ghe
thương hồ mua bán: khóm, bí rợ, dưa hấu,
dừa khô... Mỗi ngày có khi chuyền chụp cả ngàn
quả! Nhằm nhò gì mấy trái bóng bằng
da.
- Lọ: Ðội
Trưởng, Trung Phong, tay mang băng
đỏ, chiều cao một thước tám, cặp giò
đen bóng như sào chống ghe, chạy như ngựa, cú
đánh đầu sở trường và đá phạt
đền thần sầu.
- Chiến, Nhàn:
Hậu Vệ góc trái phải, đá được hai chân.
- Sáu, Hòa: Trung
Vệ thòng, dập ''ăn rơ".
- Tý, Cối:
Tiền Vệ, xuống tăng cường phòng vệ. Lên tấn công, giúp Trung Phong ăn bàn.
- Tánh: Trung Phong,
tấn công vũ bão.
- Ðệ, Út: Góc
trái, phải lớp vào chính xác.
- Lân, Tám, Tửng,
Méo, Tèo: Dự bị thường đựơc vào sân
hiệp hai khi đội mở tỷ số trước.
- Ðực: Thủ
Môn dự bị.
Sau
lần thi đấu, nghe lão ông nói đội bóng của
mình, cầu thủ giống như trâu điên Lọ chíp
trong bụng.
Hình ảnh con trâu chất phác, nhưng hào hùng, gian nan, khổ cực... Như
đa phần cầu thủ trong đội bóng xuất
thân từ trẻ chăn trâu. Lọ kết cái tên
''Trâu Ðiên'' nầy lắm!
Tất
cả đội đều đồng ý, Lọ lên
tỉnh mướn thêu phù hiệu to tròn như miệng
chén úp, nền màu tím, hình đầu trâu màu đen với
mắt trợn trừng tóe lửa. Lọ
nhờ cô Ba Diệu và đám đệ tử kết phù
hiệu vào hai bộ đồ mới, phần thưởng
dành cho đội bóng vô địch quận, đẹp và
uy dũng vô cùng. Ðội bóng mang danh hiệu ''Trâu Ðiên''
có từ đó!
Sau nầy lần
đến nhà trọng tài Tư Ðiền uống cà phê,
chỗ riêng tư chỉ có hai người Tư Ðiền
cười hỏi Lọ:
- Tại sao cháu dám
thêu hình con trâu điên lên áo đội bóng?
- Nghe khán giả
khen nhiều lần lối đá tổng lực của
đội bóng là trâu điên. Cháu thấy hay hay nên chọn
thế thôi.
Nhìn chung
quanh không có ai, Tư Ðiền nói nhỏ:
- Năm 1962,
Tiểu đàn 2 Thủy Quân Lục Chiến do thiếu tá
Lê Hằng Minh chỉ huy trận đánh ở Bồng
Sơn thuộc tỉnh Bình Ðịnh, tiểu đoàn xáp
trận, xung phong anh dũng như trâu điên, chiến
thắng lừng lẫy. Từ đó tiểu
đoàn được đặt tên là ''Trâu Ðiên''. Cháu không sợ họ chụp mũ phản
động khi chọn phù hiệu đó cho đội bóng?!
Lọ cười
nửa miệng nhún vai:
- Cháu cóc sợ,
nhún nhường quá tụi nó làm tới! Một lũ dốt đặc cán mai hiểu
biết gì đâu chú ơi!
Từ
đội bóng chân không, đá trên ruộng đất khô
nức nẻ, bây giờ đội bóng có quần áo phù
hiệu chỉnh tề, phong cách chững chạc. Ra quân mang
chiến thắng về cho xã, chưa một lần thua!
Lọ hãnh diện về công lao của
mình. Nhưng còn một điều Lọ khoái
nhứt, không tâm sự với bất cứ ai.
Lần rồi vào chung kết với Giồng Trôm, Ba Diệu
bao nguyên một chiếc xe Lam cùng cả chục đệ
tử đi xem ủng hộ đội bóng xã nhà. Vào đầu hiệp hai sau khi dẫn
trước 3-1 đội Phong Nẩm được
hưởng quả phạt đền trong vùng cấm
địa. Cả cầu trường nín thở,
lấy trớn từ xa Lọ chạy bay bụi
để sút quả phạt đền sấm sét, nhưng
chân chạm nhẹ nhàng quả bóng lăn đi chưa
đầy một thước dừng lại. Cầu
trường im phăng phắc, thế rồi mọi
người đều nhận biết sự mã
thượng của đội Phong Nẩm! Ðồng
loạt đứng phắt dậy vỗ tay,
la hét, cổ võ hoan hô thật lâu. Nhìn lên khán đài, thấy
Ba Diệu vỗ tay tươi
cười với mình! Lúc đó có ai cắc
cớ hỏi Lọ mấy tuổi chắc Lọ không còn
nhớ.
Xong
trận đấu tỷ số 6-2 mang chiến thắng
về cho đội ''Trâu Ðiên'' và bắt đầu từ
hôm nay đội bóng là đội vô địch huyện
Giồng Trôm.
Ba Diệu từ khán đài chạy bay xuống, trao cho
Lọ khăn lông nhỏ tẩm lạnh và một bọc
cà phê đá, vỗ vào tay Lọ, Ba
Diệu tươi cười nói:
- Lọ, anh hùng
lắm!
Lọ
nghe đất dưới chân mình lún xuống. Lọ
uống hết bọc cà phê đá một mình. Bọc
cà phê ngon nhứt đời nó!
Mấy lúc sau
nầy, chánh quyền và nhứt là công an
không còn thắc mắc, nguồn gốc, lý lịch và màu da
của Lọ nữa.
Ðội
bóng mang danh dự về cho xã, toàn thể cư dân
đều hãnh diện về đội bóng. Cán bộ chỉ
biết đọc diễn văn khai mạc, nhận
bằng khen và ăn nhậu không
thiếu mặt nào khi đội bóng thắng, chánh
quyền không tốn hoặc đầu tư một xu nào
cho đội bóng.
Ðầu
tháng chạp, ngọn gió bấc mang cái lạnh se
người đến. Bác Ba Tầm Vu ho khúc khắc,
ngồi co ro đưa hai bàn tay
đầy gân đã trổ nhiều đồi mồi, xoa
xoa, bóp bóp hơ trên bết lửa dù đã mặc ba lần
áo.
Ðêm xuống, kêu
Lọ ngồi cạnh, miệng bỏm bẻm nhai trầu
bác nói:
- Năm nay
ngoại đã ngoài bảy mươi tuổi rồi,
gần đất xa trời không biết theo
ông bà lúc nào? Bỏ con lại mồ côi một mình ngoại
không yên lòng ra đi. Ðịa chỉ ba con bên Mỹ đàng
sau tấm hình, ngoại cất trong rương! Con tìm cách
nhờ người ta viết thư liên
lạc với ba con! Con có cha ngoại sẽ yên lòng nhắm
mắt.
Nghe
ngoại nói.
Lọ ngồi lặng thinh, rưng rưng
nước mắt. Nó không tưởng
tượng được? Không có bà
ngoại đời nó sẽ ra sao? Ai yêu
thương nó bằng bà ngoại?
Tuần sau nó
nhờ Tư Ðiền biên thư cho ba nó
bên Mỹ ở tiểu bang
Lấy tà ly,
độ sâu và cách xắn gào quăng đất rải
đều trên mặt liếp, miếng vườn, vuông
đất nào do Lọ lãnh bồi đều bằng
phẳng, ngay hàng thẳng lối trông sướng con
mắt.
Quanh năm Lọ
không bao giờ được ở không hay thất
nghiệp! Nhưng có một điều đôi khi
người chủ đất hơi phiền lòng, dù
nước còn ròng, miếng đất còn một sào
nữa là xong, có thể kết thúc trong ngày, nhưng đúng
bốn giờ mặt trời còn cao Lọ buông gào, tắm
rửa, lững thững về nhà ăn vội chén cơm
nguội và tép rang và ra sân dượt banh. Ai
nói nó bướng, nhưng Lọ có nguồn vui thầm kín
riêng của nó. Ra sân với quả bóng chuyền trên
sân, nhìn theo quả bóng nó quên hết
số phận hèn muộn của nó, quên luôn chuyện vét bùn
bồi mương, một thằng Mỹ con lai đen. Còn
chăng là hình ảnh thương yêu của bà ngoại nó
và gương mặt nõn nà của cô Ba Diệu với lòng
dạ trắng bóc như hột gà luộc, môi son với
đôi mắt lá dâm liếc qua như hốt hồn nó bay
đi mất tiêu.
Ba tháng sau, một
chiếc xe du lịch màu xám tro dừng
ngoài đường trước nhà, một người
Mỹ đen bước xuống cạnh một thanh niên
và một công an xã đi kèm vào nhà.
Người thông
dịch nói cho bà ngoại và nó biết:
- Ông nầy là bác
sĩ chỉnh hình trong toán thiện nguyện, phục
hồi chân tay giả cho nạn nhân trong
chiến tranh. Ông ta tên là
Ông bác sĩ và
Lọ giống nhau như đúc, có điều ông ta hơi
mập và thấp hơn thằng Lọ. Hai cha con ôm nhau
trong sự tỉnh táo của hai người đàn ông lâu
ngày chưa có một liên hệ nào.
Bác Ba vào
rương lấy ra khuôn hình Thắm và ông ta chụp chung, tên công an xã nhếch mép:
- Bà giấu tài quá
hén!
Ông
bác sĩ đến đốt nhang trước bàn thờ
và bước ra sau thăm mộ má thằng Lọ, ông
đứng yên cúi đầu hồi lâu.
Qua thông dịch
viên ông
- Tôi cám ơn bà
đã khó nhọc nuôi con tôi khôn lớn đến ngày nay. Tôi sẽ đền ơn bà.
Quay sang thằng
Lọ ông tiếp:
- Ba chỉ có mình
con là duy nhứt, mong con tha lỗi cho ba, những ngày
tới ba sẽ hết lòng lo cho con và bảo lãnh con qua
Mỹ sống với ba.
Ông ra xe mang vào cho Lọ một va li lớn gồm
quần áo và một đồng hồ hiệu Rolex. Ông
cầm năm ngàn đô la và nói với Lọ:
-
Ba gửi cho bà hai ngàn! Con hai ngàn còn một ngàn làm mộ cho
ông và mẹ con.
Sau
đó ông ôm bà Ba, hôn thằng Lọ và ra xe trở về
Sàigòn để ngày mai theo đoàn ra Hà Nội tiếp
tục công tác nhân đạo thiện nguyện.
Ít
lâu sau, ông bác sĩ làm giấy bảo lãnh cho bà ngoại và
thằng Lọ sang Hoa Kỳ. Bà cương quyết không
đi, bà đi rồi ai lo hương khói cho ông và Thắm
đây! Thằng Lọ không đi vì đời nó không
thể sống xa bà ngoại. Thằng Lọ nói thế có
một phần nhỏ không đúng, sự thật vì nó không
thể nào mỗi ngày không thấy gương mặt đa
tình của Diệu được và còn có cả
đội bóng thân yêu của nó nữa.
Từ
Mỹ bác sĩ Jefferson trả lời rằng thật lòng
ông lấy làm tiếc về việc bà ngoại và Lọ
từ chối sang Mỹ. Ông ký thác một số tiền
lớn vào ngân hàng American Bank để Lọ tùy nghi sử
dụng, việc nầy chỉ có thằng Lọ và Tư
Ðiền biết mà thôi.
Người
giàu nhứt làng nầy bây giờ là bác Chín Ngãi với
năm mẫu vườn trồng cam quít, bưởi
năm roi, nhản và dưới mương sạch cỏ
nước ra vào thông thương nuôi mấy thiên cá
trắm cỏ đã vào ký. Căn nhà ngói đỏ, nền
cao ba gian hai chái, giàn cây kiểng gần hai chục chậu
tạo hình: Long, Lân, Qui, Phụng độc đáo
trước sân.
Con
bên Mỹ bảo lãnh sang đoàn tụ, vợ chồng bác
Chín Ngãi bán căn nhà và năm mẫu vườn trái cây
đã có trái chín. Trong xã không có ai đủ khả năng
mua cơ ngơi của vợ chồng bác Chín Ngãi cả.
Cán bộ thèm rỏ nước dải, có khả năng
cũng không dám mua, sợ bị điều tra lòi ra tội
tham ô, ăn cắp của công và cắt xén viện trợ
nhân đạo để xóa đói giãm nghèo.
Tư
Ðiền đến gặp Lọ và gợi ý, nếu không
đi Mỹ đoàn tụ với cha, ở lại Việt
Nam tại sao không mua cơ ngơi Chín Ngãi, trước là
Lọ sống an nhàn cả đời, sau cho bà ngoại
sung sướng vui lòng trước khi nhắm mắt lìa
đời.
Sau
trắng đêm suy nghĩ Lọ bằng lòng ngoài lý do Tư
Ðiền nêu ra, còn một nguyên nhân thầm kín khác chỉ mình
nó hiểu mà thôi: mỗi ngày được trông thấy
Diệu nhiều lần! Niềm vui bao la của
đời nó.
Ba
thằng Lọ sẽ trả tiền cho con Chín Ngãi bên
Mỹ, giấy tờ chủ quyền nhà đất
được giao cho Lọ tại Việt Nam. Thủ
tục hoàn tất trong vòng một tuần sau khi chánh sở
nhà đất tỉnh nhận được bao thơ
dầy cộm.
Chín
Ngãi trước khi xuất cảnh có làm bữa tiệc
độ mười bàn. Chánh quyền, công an xã không ai
vắng mặt. Dự tiệc với mớ giấy
tờ chủ quyền nhà đất trong túi quần,
mọi người cụng ly chúc mừng, đặc
biệt tên Lọ đã dứt đi chữ Nồi từ
lâu, hôm tay được thay vào đàng trước chữ
anh, chú, cậu... nghe sao êm tai và tình nghĩa chi lạ.
Dọn
nhà được một tuần, Lọ rước
thợ chụp hình bà ngoại và Lọ cùng căn nhà ngói
đỏ với nhiều góc cạnh gửi sang Mỹ cho
ba để chứng minh số tiền nó sử dụng,
nếu về thăm có chỗ nghỉ ngơi khỏi
ở khách sạn, đồng thời bà ngoại và nó cám
ơn ba nó thật nhiều.
Mùa
quít năm đó, nó bẻ được một trăm hai
chục cần xé nhứt, không kể số cam,
bưởi, nhản do bạn hàng đến mua chở lên
tỉnh.
Về
nhà mới chứ đôi ba bữa, bác Ba vẫn xách rổ
về nhà cũ lượm cao tầm vung và bẻ trầu
vàng. Trưa nằm trên bộ ván gỗ láng bóng, mun đen
mát rượi, miệng bỏm bẻm nhai trầu.
Thằng
Lọ sửa lại căn nhà cũ, lợp mái mới lót
gạch tàu cho vợ chồng Tư Ðiền ở không! Nghe
nói có chuyện cơm không lành canh không ngon với gia đình
bên vợ. Lọ giúp vốn cho Tư Ðiền mở
tiệm tạp hóa. Xã đã bắt cầu ngang sông, nằm
ở ngã ba, lắm người xuôi ngược, tiệm
tạp hóa Tư Ðiền bán khá lắm!
Tuần
rồi trong bữa tiệc mừng chiến thắng,
đội vô địch huyện Phong Nẩm hạ
đội Hàm Long. Lọ trong tư thế ngà ngà say, kéo
Tư Ðiền ra một góc và dốc bầu tâm sự:
-
Con thương Ba Diệu quá chú Tư ơi! Chú cố
gắng làm mai cho con nghen chú Tư.
Bà
ngoại bằng lòng, Tư Ðiền đến thăm ba má
Diệu đôi lần và ướm lời Lọ muốn
cưới Diệu. Ba má Diệu bằng lòng vì dù da
thằng Lọ đen, nhưng bây giờ nó là kẻ giàu có
nhứt làng. Con gái mình có chỗ giàu sang nương tựa,
họ hy vọng rồi ra thằng rể cũng sẽ
biết điều với mình. Còn Ba Diệu đỏ
mặt, sửa mình sửa mẩy làm ra vẻ hiếu
thảo, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy.
Cưới
vợ phải cưới liền tay, rằm tháng tám,
lễ Trung Thu là ngày đám cưới Lọ và Diệu.
Tất cả cầu thủ làm rể phụ, sơ mi
trắng dài tay bỏ trong quần, cà vạt tím sẵm. Ðám
học trò Ba Diệu làm dâu phụ với áo dài màu xanh da
trời, bông hồng trên ngực áo đẹp và duyên dáng vô
cùng.
Chú
rể mặc áo dài, khăn đống gấm xanh
đậm, trông vui mắt như nghệ sĩ lên sân
khấu. Cô dâu áo dài khăn vành màu hoàng yến, áo choàng voile
trắng kết reng.
Lọ
và Ba Diệu thật đẹp và xứng đôi!
Ðám
cưới thật to: mâm trầu rượu, khay hộp
cẩn ốc sa cừ, mâm đèn, mâm trầu cau, mâm heo quay,
rượu, trà, bánh, trái. Gần cả chục mâm phủ
nhung đỏ reng vàng.
Ðàng
trai rước dâu vào cổng mà đuôi đoàn người
đưa dâu còn bên cổng vu qui nhà gái. Hai nhà cách nhau
bằng hàng rào bông bụp xanh mượt, điểm
lơ thơ hoa đỏ thắm, đung đưa
mỗi khi có làn gió nhẹ lướt qua.
Ðặc
biệt hôm Lọ đưa Ba Diệu sắm nữ trang
cho cô dâu trong ngày cưới vòng vàng, dây chuyền mặt
cẩm thạch đỏ màu hoa lý, cặp nhẫn
cưới, Lọ mua đến hai đôi bông cẩm
thạch, một tặng cho Diệu, một tặng cho bà
ngoại, bù lại ngoại đã bán đôi bông búp mù u vàng
y, kỷ niệm duy nhứt của ông ngoại trong ngày
cưới của bà hơn nửa thế kỷ
trước để lo lót cho Chủ Tịch Xã để
làm khai sanh cho Lọ, không có khai sanh không được
đến trường.
Ðám
cưới hạ hai con bò, khách khứa ăn nhậu,
cười nói đông vui vô kể.
Bác Ba Tầm Vung mặc áo dài gấm tím than, thỉnh
thoảng nhổ cổ trầu trong bô bằng đồng
đánh bóng sáng choang.
Ðám
cán bộ, bí thư, công an xã lễ phép từ tốn
đến chào bà trước khi vào bàn nhậu! Tiền
bạc giúp người ta thay đổi đẳng
cấp và từ hôm đó mọi người chỉ
gọi bác Ba không có hai chữ '' Tầm Vung'' đi kèm.
Ðám
cầu thủ chia nhau phụ trách tiếp tân và chạy bàn.
Tiệc cưới đến xế chiều mới tan!
Hai can rượu bốn chục lít chỉ còn hai thùng không
ngã nghiêng dưới gầm bàn.
Hoàn
thành xong nhiệm vụ đám đàn em của Lọ
bắt đầu gầy sòng nhậu tới khuya và tới
màng ''quây đầu gà'' mỏ gà quây trúng hướng ai,
người ấy phải cạn ly, số người
tham dự lần lượt xỉn nằm la liệt
khắp nhà.
Trời
gần sáng, trăng ngả lần sau cây bằng lăng bên
kia đường, Rở thủ môn lòm còm gồi dậy
định ra nhà vệ sinh đi tiểu, ngang qua phòng
ngủ của vợ chồng Lọ nghe tiếng cải
vả Rở ghé tai vào khe cửa nghe lén,
Tiếng
Diệu có vẻ giận dữ:
-
Rồi đám mệt thấy bà, đầu hôm tới
giờ mần ba quả! Quả nào quả nấy như cú
sút phạt đền!!! Ðêm tân hôn nhập phòng áp dụng
chiến thuật ''Trâu Ðiên'' của anh làm sao em chịu cho
thấu!!! Anh làm quá! em ôm quần áo
về bên nhà ba má ở luôn bên bển.
Tiếng
Lọ trả lời xụi lơ:
-
Em không chịu thì thôi anh đâu có nói gì đâu.
Thời
gian qua mau, những chùm quít sai oằn đã láng da mơn
mởn! Mới đó Lọ và Ba Diệu đã cưới
nhau được nửa năm rồi.
Ðội banh xã Phong
Nẩm vẫn tung hoành trên sân cỏ! Ra
quân là chiến thắng, duy có một mình thằng Lọ
giữ vai hậu vệ thỉnh thoảng mới lên hàng
tiền đạo tham gia tấn công, đội đầu
làm bàn, chứ không còn chạy bao sân giống ''Trâu Ðiên"
như ngày xưa nữa! Ðàn bà đôi khi làm
tốc độ bóng đá chậm lại.
Lọ
được vợ săn sóc chu
đáo, bữa cơm chiều nào Diệu cũng làm cho
Lọ ly cam vắt vàng ươm đập vào hai lòng
đỏ trứng gà. Phần Ba Diệu đôi má hây hây
phính ra, đôi mắt long lanh sáng rực, thân hình tròn
lẳng nõn nà và đặc biệt Lọ vừa khám phá ra
vợ mình có tướng đi ''mình xà uốn khúc''
Ðặc biệt
cũng theo lời tiết lộ của
thủ môn Rở. Suốt sáu tháng qua, kể cả đêm
động phòng giận dữ, Diệu chưa bao giờ
ôm quần áo về nhà cha mẹ ruột ngủ... Cho dù
chỉ một đêm thôi!!!
(Tường Lam 7- 30 - 06)