“Má ơi đừng gả con
xa,
Chim kêu mà vượn hú biết nhà má đâu,
Sương khuya ướt đọng giàn bầu,
Em về miệt thứ bỏ sầu cho ai..”
Ngọai gả dì Hai lấy
chồng về miệt Long-Xuyên khi dì vừa tròn
mười tám tuổi. Ðám cưới cử hành trọng
thể theo thủ tục ở nhà quê thời xưa.
Rước dâu bằng thuyền hoa. Từ cửa nhà Ngoại
đi dài xuống bến sông, hai bên treo đầy lủng
lẳng những cành lá cây đủng đĩnh
được người lối xóm khéo tay tình nguyện đến
phụ kết lại thành bông hoa và một chiếc
cổng chào khách trông đẹp mắt. Gia đình bên
chồng của dì Hai nghe nói làm nghề nông, có vườn
đất và điền sản…
Cha mẹ đặt đâu con
ngồi đó. “Áo mặc sao qua
khỏi đầu”, dì Hai cũng như các thiếu
nữ thời đó ai ai cũng thuộc lòng câu nầy
như câu niệm thần chú. Vâng lời cha mẹ như
vậy mới là đứa con hiếu thảo, trả
ơn báo hiếu công sinh thành dưỡng dục như
trời biển cho cha mẹ. Nghe kễ lại thì từ
lúc có người mai mối cho đến ngày đám
cưới dì Hai và người chồng tương lai
chỉ gặp nhau có hai lần. Lần đầu tiên là
ngày gia đình bên đàng Trai đến làm lễ Hỏi,
sau khi hai nhà Trai-Gái đã thỏa thuận, đồng ý cho
đôi trẻ nên duyên. Lần thứ hai là ngày cử hành
lễ Vu-Quỵ.
Thời đó trai gái đến
tuổi thành nhân ít có thanh niên thiếu nữ nào
được quyền tự chọn người bạn
đường, mà tất cả đều do nơi gia
đình xếp đặt. Có nhiều cặp vợ chồng
chỉ biết mặt nhau vào ngày cưới. Mập,
ốm, cao thấp, xấu đẹp, xứng đôi
vừa lứa hay không thì chuyện cũng đã rồi!
Từ đó tân lang và tân giai nhân dẫu không vừa ý nhau thì
cũng ráng dằn lòng cắn răng mà chấp nhận
“định số” của cuộc đời! Nhiều
cặp vợ chồng đã tìm được hạnh
phúc, sống bên nhau trọn đời, sinh con, có cháu
chắt đầy đàn; ngược lại cũng có
những tâm tư cô đơn âm thầm nhận chịu
khổ đau suốt kiếp...
Dì Hai là một trong những
nạn nhân của phong tục hôn nhân thời đó.
Dì may
mắn được diễm phúc, vợ chồng hoà
hợp, xứng đôi vừa lứa. Nhưng vợ
chồng dì càng đẹp đôi, yêu thương khắn
khích bao nhiêu, thì ngược lại nhận được
những sự ganh ghét, cay nghiệt bấy nhiêu từ
Mẹ chồng một người đàn bà góa bụa và
người chị chồng còn độc thân đang
sống chung. Thời đó, đại đa số
những gia đình ở thôn quê sống bằng nghề
nông có ý nghĩ cưới dâu về để thêm tay
phụ giúp công việc đồng áng, lo bếp núc, làm việc
nhà và đồng thời sinh con đẻ cái nối dõi dòng
họ. Biết bao nhiêu những trách nhiệm, công việc
nặng nhọc đè nặng lên đôi vai yếu mềm,
đòi hỏi người phụ nữ xuất giá theo
chồng phải chu toàn. Làm sao mà gánh vác cho nổi! Vậy
mà người phụ nữ Việt-nam ta thời
trước đại đa số đã chịu
đựng vượt qua thử thách nầy, đã
trở thành những người Mẹ đảm đang,
những bà Nội, bà Ngoại của đàn con cháu đông
đảo.
“Chăn
tằm rồi mới ươm tơ,
Làm dâu rồi mới được như mẹ chồng”
Người
đàn bà thật đáng kính phục bởi sức chịu
đựng bền bĩ dẻo dai để tạo
dựng cho thế hệ hôm nay có được. Tuy nhiên
cũng không sao tránh khỏi một số bà mẹ chồng
tâm tư nhỏ nhoi, ganh tị và thiếu hiểu biết,
mà trước đó đã từng chịu “kiếp làm dâu”
và đám phụ nữ chị, em chồng mang bệnh “xéo
xắc”, thích tỏ ra là mình có bản lỉnh, hay dựa
hơi mẹ cha hành hạ nàng dâu để làm niềm vui,
mà không thương cảm cho cảnh ngộ cùng là phận
gái như nhau và không nhìn thấy được những
hình ảnh tương tự của mình trong tương
lai.. Dì Hai không may là nạn nhân của họ!
“Làm dâu khó
lắm em ơi!
Nhịn ăn nhịn mặc nhịn lời mẹ cha
Nhịn cho nên cửa, nên nhà
Nên kèo, nên cột, nên xà tầm vông
Nhịn cho nên vợ nên chồng
Rồi em coi sóc lấy trong cửa nhà”
Từ khi bước vào
ngưỡng cửa gia đình chồng, dì Hai
được mẹ chồng và chị chồng đối
xử xem như một người giúp việc không công.
Làm hết việc đồng án cho đến việc nhà
từ mờ sáng đến khuya. Dì đặt mình trong
bổn phận dâu con không một lời than thở,
hết mực thờ kính mẹ chồng, cùng xem
người chị chồng như chị ruột của
mình, vì thời con gái ở tuổi mới lớn, dì Hai
chưa được sống trọn vẹn với gia
đình, chưa được đầy đặng tình
chị em thân thương, đã phải vâng lệnh mẹ
cha cất bước vu quy, lấy chồng đi xứ
lạ ...
“Cây khô
chết đứng giữa đồng
Nàng dâu khôn khéo mẹ chồng vẫn chê!”
Nhận
chịu sự bạc đãi không chút lòng nhân cảm thông
cùng là thân phận phụ nữ của hai người
đàn bà đang sống chung trong một mái nhà, cùng
những trận đòn roi như cắt da xé thịt.
Bỏ nhà chồng ra đi thì lại sợ tiếng
đời dị nghị cho bản thân và gia đình.
Hơn hai năm cắn răng cam phận làm kiếp tôi
đoài ngày nầy sang ngày khác, không được một
lần nào về thăm cha mẹ chị em. Hành hạ,
khổ nhục nàng dâu từ tâm hồn đến thể
xác vẫn chưa đủ cho hai người đàn bà
độc ác thỏa dạ, họ còn toan âm mưu bán dì vào
nhà Thổ để lấy lại tiền của đã
bỏ ra làm đám cưới vợ cho con trai đã
khiến động lòng người chồng của dì Hai
không còn chịu đựng được nữa!
Thương cho hoàn cảnh thân gái không may, người
chồng của dì Hai sắp xếp kế hoạch dẫn
dì trốn khỏi căn nhà điạ ngục, đưa
dì Hai trở lại mái ấm gia đình. Ông xin dì tha thứ
cho những việc xảy ra ngoài ý muốn gây nên duyên
phận lỡ làng..mà vì chữ hiếu ông đành phải
bó tay bất lực không bảo vệ được cho
vợ.
*
* *
Ở cùng làng với dì Hai có
một thanh niên hiền lành chất phát, nhà nghèo, chăm chỉ
làm việc, cư xử tốt với bà con chòm xóm. Chàng
để ý thương dì Hai từ thời dì còn con gái,
nhưng có lẽ vì mặc cảm gia cảnh nghèo khó cho nên
không dám thố lộ, chàng âm thầm ôm mối tình tuyệt
vọng, đau nhói con tim, chết cả cõi lòng hôm lén
đứng nhìn người mình thương bước
xuống thuyền hoa đi về làm dâu nhà người. Tin
buồn cho Ngoại và gia đình thân quyến khi dì Hai
trở về làng xưa vì duyên phận dang dở. Tin
mừng cho chàng thanh niên hàng xóm tràn đầy niềm hy
vọng nối lại bản tình ca dở dang mà chàng
cứ tưởng mãi mãi lỡ nhịp! Dẫu rằng dì
Hai đã một lần bước xuống thuyền
hoa..,nhưng tình yêu của chàng vẫn đầm thắm
như ngày nào dệt mộng yêu đương đã
khiến xiêu lòng người thiếu phụ mang nặng
nỗi sầu phiền muộn vì số phận lỡ
duyên.
“Trăm
năm dầu lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa.
Trăm năm hội ngộ tình cờ
Đàn cầm anh gẩy câu thơ anh đề.
Muốn cho thuận nẻo đi về
Anh sang làm rể, em về làm dâu.
Số giàu lấy khó cũng giàu
Số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo.
Phải duyên phải kiếp thì theo,
Khuyên em chớ nghĩ giàu nghèo làm chi.
Em ơi! Chữ vi là vì
Chữ dục là muốn, chữ tùy là theo.
Ta yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Thất bát giang cũng lội, tam thập lục đèo
cũng qua”
Chờ một thời
gian cho dì Hai phôi phai, lắng đọng nỗi sầu
riêng, chàng cậy nhờ mối mai đến xin
cưới dì Hai. Làm thân con gái, đường tình nhịp
cầu gẩy đổ bị vấp ngả, nay có
người thiết tha đưa tay níu lấy bàn tay mình để
dìu bước đi tới..thôi thì:
“Phận gái bến nước
mười hai
Gặp nơi trong đục, may ai nấy nhờ..
Biết
rằng đâu đã hẳn hơn đâu
Cầu tre vững nhịp hơn cầu thượng gia
Bắc thang lên thử hỏi ông trăng già
Phải rằng phận gái hạt mưa sa giữa
trời ?
May ra gặp được giếng khơi
Vừa trong vừa mát lại nơi thanh nhàn
Chẳng may số phận gian nan
Lầm than cũng chịu, dễ phàn nàn cùng ai!
Đã yêu nhau giá thú bất luận tài.”
Lần
nầy dì Hai không còn bị ám ảnh bước xuống
thuyền hoa trôi đi về một phương trời vô
định nữa, mà cô dâu sánh bước bên cạnh chú
rễ, bách bộ, đi về nhà chồng chỉ cách nhà
mình có khoảng vài trăm mét…
Trong lúc hai họ đang hân hoan
tưng bừng mừng hôn lễ, không ai để ý
đến một người đàn ông cô đơn
như chết lặng ngồi trước mũi con
thuyền cắm sào đậu ở bên kia bến
sông...Những ngày sau đó, nơi bến sông nhà dì Hai
người ta thường thấy xuất hiện
một người khách thương hồ xuôi
ngược, chèo ghe lảng vảng, có khi đậu
bến, có khi cho ghe thả trôi theo con nước.
Người hiếu kỳ, tìm tòi dọ hỏi mới
biết được, người đó chính là chồng
trước của dì Hai, ông trở lại tìm người
vợ năm nào, sau khi mẹ ông qua đời và
người chị vì hối hận đã a tòng với
mẹ của mình gây ra cảnh tan nát cho gia đình em trai nên
khoác áo nâu sòng nương náo cửa từ bi. Nhưng đã
muộn màng! Con thuyền năm ấy tách bến không hẹn
ngày trở lại. Bến sông xưa không còn chờ
đợi con đò năm cũ!
“Ai đem con
sáo sang sông
Ðể cho con sáo sổ lồng bay xa...
Ai về
anh gởi bức thơ
Hởi người bạn cũ bây giờ nơi nao
Non kia ai đắp mà cao
Sông kia biển nọ ai đào mà sâu?”
Ông tiếc
nuối cho duyên phận ngắn ngủi với
người vợ thương yêu vì định mệnh
trớ trêu của cuộc đời chia cách; ông thả
thuyền trôi theo dòng nước, như thả trôi thân trai
bềnh bồng để mặc cho dòng đời
đưa đẩy trên con thuyền đã lỡ bến
vẫn còn lưu luyến bến sông xưa…
Con thuyền không bến trôi theo
dòng nước đi biệt dạng …
Ðôi vợ chồng son, một túp lều tranh,
hai quả tim vàng thương yêu và khắn khít bên nhau bù
lại những ngày hôn nhân trước của dì, hạnh
phúc lúc nào cũng bị rình rập, trù ẻo, đe dọa
và khủng bố tinh thần của hai người đàn
bà, một già một trẻ.
* * *
Dì dượng Hai không có sinh con.
Ngày xưa thời loạn lạc, những người dân
ở vùng giao tranh phải bôn ba tìm nơi an toàn. Bữa
nọ có gia đình của một thiếu phụ tản
cư từ vùng lửa đạn, chồng bà đã
chết, bà chở bốn đứa con đi trên chiếc
xuồng nhỏ đến đậu ở bến sông nhà
dì. Thấy người gặp hoàn cảnh khổ nên dì
dượng giúp đỡ. Cảm kích ân nghĩa của
người dưng nước lã không họ hàng thân
thuộc, nên khi dì Hai có nhã ý muốn san sẻ, nuôi bớt
dùm bà một đứa con, bà đồng ý cho dì
dượng một người con gái. Ðó là chị Hai, con
Cả của dì dượng Hai.
Thuở nhỏ, ba má tôi bận
công việc đi làm ăn xa, tạm gởi mấy chị
em tôi về quê, tôi được có dịp chung sống
với gia đình dì dượng. Nhà
dì dượng Hai lúc đó thu gọn nhỏ lại hơn
về phía sau, sân trước đấp nền cao
để chuẩn bị cất nhà. Mùa nước lũ,
nước sông Cửu Long tràn ngập theo ngỏ sông
Hậu, đổ vào các sông rạch nhỏ, ngập lênh
láng. Con đường đất ở hai bên bờ sông
nước ngập lên đên thắt lưng của người
lớn. Dì dượng Hai không cho mấy chị em đi
đâu, vì sợ nước cuốn, bắt phải ở
trong nhà. Ngồi trong nhà nhìn ra chung quanh, tưởng
tượng như đang ở trên hoang đảo.
Thấy mấy chị em ở nhà buồn, bữa nào ra
đồng về sớm, anh Ba chất mấy chị em
lên xuồng, chống ra ruộng chơi. Anh Ba chống
xuồng thật tài tình, tôi nhìn mà thán phục! Cây sào dài
chừng 5m, tay anh uyển chuyển cây sào, đẩy
chiếc xuồng lướt nhanh trên mặt ruộng loáng
nước. Tôi nghe gió ù ù thổi hai bên lỗ tai mình.
Mấy chị em nắm chặt lấy be xuồng, sợ bị
lọt xuống nước.
Anh Ba từ nhỏ lớn lên với
ruộng đồng, rẫy bái, anh quen với đời
sống cực khổ, làm việc của người
của người dân quê chân lắm tay bùn. Anh Ba mồ côi
cha mẹ từ thuở nhỏ, được một nông
dân mang về cho ăn ở trong nhà, anh phụ trách trông nôm
cái chuồng trâu, bò cho gia chủ, làm việc cực
nhọc. Một hôm dượng Hai đi mua trâu về cày
ruộng, ghé ngang qua chổ anh đang ở, gặp anh và
nói chuyện hỏi thăm. Ðược biết hoàn
cảnh của anh, nên xin với gia chủ cho dượng nhận anh làm con nuôi. Nay dì dượng có thêm một
người con trai nữa, người dân ở miền
* * *
Buổi sáng, dượng Hai
bơi xuồng ra đồng dỡ lờ, lộp, mang
về đầy khoang xuồng đủ loại tôm, cá. Có
hôm dượng Hai bận ra đồng sớm thì anh Ba thay
thế đi dỡ lộp, gở cá dính câu. Mấy chị
em ngồi nhà chờ…Khoái nhất là được nhìn
xuồng trở về, tôm cá đầy, vẫy vùng, bơi
lội trong khoang xuồng. Chị Ba, hay lựa ra những
con tôm càng lớn, có gạch đỏ ao đem đi kho tàu
trong cái nồi đất, rồi nấu cơm với
gạo lúa thơm. Mấy chị em ngồi chờ,
ngửi mùi cơm bốc hơi thơm phức mà thấy
bụng đói cồn cào không chịu nổi. Mỗi ngày,
sau khi ăn cơm sáng xong, chị Ba bơi xuồng chở
mấy chị em đi học. Dì Hai thường ra chợ
rất sớm. Tôi ngồi trên xuồng nhìn hai bên bờ
sông, thấy có con nít cùng trang lứa với mình, quần áo,
sách vở quấn trong miếng vải nylon, lặng
ngụp, lội nước đến trường, tôi
trong lòng thèm muốn được như vậy, thấy
vui vui, nhưng chị Ba không cho phép, nên không dám.
Nước
rút xuống, dì dượng Hai cuốc nền nhà chưa
cất lên thành luống hàng dọc, trồng cà tô-mát.
Mỗi ngày dì dượng Hai hoặc anh chị Ba đi
xuống sông múc nước lên tưới cà. Mấy
chị em đi theo xem, dì Hai không cho làm gì. Những cây cà
đâm chồi xanh mượt, lớn mạnh, thoáng
chốc đã đơm bông kết trái. Mấy chị em
đi tới lui đi tới lui nhìn những quả cà tròn
trịa, màu xanh ửng đỏ.. Cà chín đỏ,
quằng cành nằm rạp xuống đất. Anh Ba đi
ra đồng chở về một xuồng đầy
rơm, mang lên sân. Mấy chị em phụ giúp lấy rơm kê ở bên dưới những
trái cà để bảo vệ cho nó đừng bị
dập, hư thúi. Rồi đến lúc thu hoạch,
mỗi buổi chiều, mấy chị em cầm cái rổ
theo sau dì Hai và chị Ba ra sân hái những trái cà hờm chín
để hôm sau dì Hai mang ra chợ bán.
Thỉnh thoảng dì
dượng Hai và anh chị Ba cùng đi làm mùa vài tuần
lễ, gởi mấy chị em ở lại nhà nhờ
người hàng xóm dòm ngó dùm. Dì dượng Hai và anh chị
Ba trở lại sau vụ mùa, xuồng chở đầy
cá mắm. Mấy chị em tôi, cùng một số
người ở lối xóm ra bến sông đón, lăng
xăng phụ mang lên nhà đủ thứ. Ðược trúng
mùa, dì dượng Hai và các anh chị ai ai cũng hớn
hở vui mừng trên gương mặt còn lấm tấm
mồi hôi sau chuyến trở về mệt mỏi, bơi
xuồng hơn hai ngày đường. Thời đó
chưa có sắm sửa máy “đuôi tôm” chạy xăng. Nhìn
thấy những sinh hoạt ở miền quê cực
khổ quá! Tất cả đều phải dùng sức
người, đổ mồ hôi đổi lấy chén
cơm manh áo. Tôi thấy thương vô cùng khi nhìn những
người thân của mình cả đời dầm
sương giải nắng. Sinh ra và lớn lên trong
những hoàn cảnh khốn đốn của xã hội
phong kiến, của thời cuộc, khiến cuộc
đời cũng bị liên lụy, ảnh hưởng,
vất vả lầm than cả một kiếp
người. Thời của các ông bà, dì dượng, chú
bác, sống dưới ách thực dân đô hộ của
người Pháp, đại đa số người dân
sống ở miền quê cơm không đủ ăn, áo
không đủ ấm thì làm sao có tiền đủ
để đến trường học chữ nghĩa,
để mở rông tầm sống và hiểu biết
với đời! Lớn lên cuộc sống gắn
liền với con trâu, thửa ruộng, đem công sức
ra làm quần quật, chống chọi với mưa
nắng hai mùa, đổ mồ hôi để đổi
lấy miếng ăn và đến khi sức mỏn
hơi tàn thì gục chết...hết một kiếp
người! Ðại đa số các thế hệ ông bà, cha
mẹ mình đã sống và chết như thế trên
mảnh đất quê hương thân yêu.
Phía sau
nhà Dì Hai, đường đi ra bờ ruộng, có cây ô-môi
to và cao, cành lá xum xuê. Anh Ba thỉnh thoảng trèo lên cây ô-môi
hái trái chín cho mấy chị em tôi. Trái ô-môi thân tròn,
đường kính đo khoảng từ 4-5 centimét, dài
khoảng nửa thước. Sau khi dùng dao rọc lớp
vỏ ở hai bên, dùng tay đẩy hai cái đường
sống xê dịch rồi bốc ra từng lát ô-môi có
mầu xám, vị ngọt chát, ở giữa có cái hột
nhỏ bằng ngó tay, hình trái tim. Ăn ô-môi, còn hột thì
dành lại, phơi khô để dùng cho trò chơi “bún”
hạt ô-môi. Trẻ con ở thôn quê nghèo nàn, cha mẹ
đâu có đủ tiền bạc để mua sắm cho
đồ chơi như con nít sống ở thành thị.
Ngoài những trò chơi nhảy cò cò, đánh thẻ, bún
hột ô-môi, chơi cút bắt, nhảy dây, và đồ
chơi tự sáng tạo bằng những vật dụng
có được…
Cả làng chỉ có một
trường Tiểu học, hai dãy nhà lợp lá, mỗi bên
ba gian dùng làm lớp học. Học trò từ những vùng
lân cận, cha mẹ phải dậy từ sáng sớm,
nấu cơm nước chuẩn bị cho con mình ăn no
bụng để đến trường cho kịp
giờ. Ði bộ, đi xuồng len lỏi theo những
bờ đê, kinh rạch để đến
trường. Ðã có biết bao nhiêu những đứa
trẻ học nửa chừng, chưa hết Tiểu
học, vì một hoàn cảnh nào đó phải nghỉ
học ở nhà giúp đỡ mẹ cha, và rồi khi
lớn lên, thân phận sao khỏi gắn liền với
cày sâu cuốc bẩm, con trâu, thửa ruộng nơi quê
nhà, nối tiếp cái nghiệp vất vả của ông bà
cha mẹ truyền lại.
Học
xong lớp Nhất (lớp 5) trường làng là
thấy khó khăn rồi. Nhiều học sinh ở thôn quê
đã dừng chân ở đó. Muốn tiếp tục
học lên Trung học thì phải sang tỉnh thành, nơi có
trường Trung học dạy từ lớp đệ
Thất (lớp 6) cho đến lớp đệ
Tứ (lớp 9) hay cao hơn nữa. Một
người học trò ở nhà quê, nếu được
ra tỉnh học, cha mẹ phải dư thừa chút ít
tiền bạc mới đủ lo trang trải tiền
ăn ở, sách vở cho con mình. Còn không thì..thôi! Ðành
chịu dốt nát, làm nông dân đến hết kiếp!
Nếu một người học trò
được ra tỉnh học hết lớp đệ
Tứ, thi lấy bằng Trung học đệ Nhất
cấp, đậu được bằng cấp nầy
cũng hãnh diện với xóm làng. Ðã có được bao
nhiêu phần trăm những người học trò ở
thôn quê đậu được bằng Trung học đệ
Nhất cấp? Chuyện tiếp tục học lên
đệ Nhị cấp, để thi tú tài cũng
giống như một người học trò ở thành
phố lớn mơ được đi du học ra
nước ngoài. Nghèo khó thường đi đôi với
dốt nát. Hễ dốt thì chịu nghèo, không biết
chữ nghĩa, không có kiến thức thì làm sao có
được một cuộc sống hiểu biết,
rộng rải để hội nhập vào thế
giới cộng đồng? Chỉ còn chấp nhận cái
số phận hẩm hiu nơi đồng ruộng!
* * *
“Gia đình trên thuận dưới hoà,
Quý hơn tiền của
ngọc ngà muôn xe”
Cây
cổ thụ gia đình nhà dì Hai bắt đầu đâm
chồi nẩy lộc cành lá xum xuê đơm bông kết
trái sau khi người con gái lớn vu quy. Ba năm sau dì
dượng có cháu Ngoại ẵm bồng. Rồi
đến là anh Ba, người con trai kế thành hôn.
Chỉ còn chị con gái Út còn đang trong tuổi vị
thành niên. Dì Hai giờ đây đã có một mái gia đình
hạnh phúc, tuy không giàu có của cải vật chất,
nhưng đầy ấp tình yêu thương giữa
những người cùng chung sống với nhau, cùng chia
cơm sẻ áo, cùng chung chia những nỗi lận
đận buồn vui thăng trầm trong cuộc
sống. Dì mãn nguyện được hưởng ấm
êm vui vầy bù lại những ngày trong quá khứ thời
làm thân con gái mười hai bến nước, dì đã
không may gặp nhầm bến đục. Ðôi lúc bất
chợt, dĩ vãng của một thời khổ đau
lại chập chờn thoáng hiện trong tâm
tư…Người chồng “vô tội vạ” vì chữ
hiếu đáng thương đã không thể bảo
vệ được cho vợ mình trước nghịch
cảnh. Hơn hai năm chăn gối vợ chồng
cũng là tình là nghĩa khó phai còn ghi đậm nét trong trang
giấy quá khứ đời mình; nỗi niềm còn ít
nhiều vương đọng trong lòng mà một con
người bình thường nếu đã trải qua khó
tránh khỏi. Dì tự hỏi:“Không biết người
ấy bây giờ ra sao…?!” khi ván đã đóng thuyền,
mọi sự việc được tạo hóa an bài và
thời gian trôi qua đã cuốn đi ít nhiều quá
khứ, mang đến những mới mẽ trong cuộc
sống. Ðễ giải tỏa những nỗi niềm
riêng còn bồn chồn thôi thúc còn ẩn hiện trong
tận cùng cõi riêng tư của mình, dì Hai đem chuyện
lòng ra trải bài với người bạn đời,
muốn ngỏ ý cùng chồng trở về thăm lại
nơi “địa ngục” trần gian đã giam hãm
đời con gái mới lớn của mình. Dượng Hai
tán đồng ý kiến; tôn trọng những riêng tư
của vợ, không muốn tháp tùng đi..
* * *
Trở lại chốn cũ sau
bao năm vật đổi sao vời. Bỡ ngỡ
trước cảnh lạ, dì Hai lần mò dọ hỏi và
tìm lại được ngôi nhà ngày nào. Người xưa
sau vài giây phút đã nhận ra nhau, mừng mừng, tủi
tủi, không ngăn được nước mắt. Hai
mái đầu tóc lấm tấm điểm sương
nghẹn ngào nhìn nhau
qua mắt lệ nhạt nhòa, người đàn ông
luống tuổi ngậm ngùi âm thầm thổn thức:
“Anh biết yêu em đã muộn
màng
Nhưng mà ai cưỡng được tình thương!
Ngậm ngùi tặng trái tim lưu lạc
Anh chỉ xin về một chút thương
Một
chút hương phai của ái tình
Mà em không thể gửi cùng anh
Để lòng ướp với tình phai ấy
Anh tưởng từ đây bớt một mình
Mắt
ướt trông nhau, lệ muốn tuôn
Gượng cười anh phải khóc thầm luôn
Em là người của ai ai đấy
Lưu luyến chi nhau để xót buồn
Dầu chiếm tay em , anh vẫn
hay
Rằng anh chỉ nắm cánh chim bay
Bao giờ có được người yêu dấu!
Chất chứa trong lòng vạn đắng cay”
(Thơ Xuân Diệu)
Người đàn bà
đáp lại qua ánh mắt dòng lệ tuông chảy:
“Anh ơi
anh nếu tình đã phai phôi
Có gặp lại cũng tình đôi đã nhạt
Em chúc anh có một niềm vui khác
Chuyện chúng mình như nước lạc --thuyền xa
Anh ơi anh hãy đừng lắm thiết tha
Ngày tháng cũ những trăng hoa lãng mạn
Giờ tất cả đã như là mây trắng
Vỡ tan rồi khi trời lắng giọt mưa
Anh ơi anh những ngày
tháng đón đưa
Ta bên nhau sớm trưa nồng ân ái
Nếu lúc trước biết chỉ là ngang trái
Thì chuyện lòng đã gác ....lại phải không ..
Anh ơi anh xin đừng
mãi chờ mong
Có những khi em cũng không quên được
Kỉ niệm nhiều
cũng như là biển nước
Có khi nào về lại...một đại dương..?!”
(Thơ Bãng Nguyệt)
Không gian im lìm như nín thở! Cảnh
vật trước mắt hai người lung linh qua ngấn
lệ ràn rụa...Bàng quàng như một giấc mơ! Hình
ảnh ngày xưa của đôi vợ chồng son bừng
sống lại. Chuỗi ngày dài biền biệt luyến
lưu tiếc nhớ tưởng đã nghìn trùng xa cách ...
Hình ảnh của ngày nay.. bụi thời gian đã ít nhiều
mang đi hương sắc hoa mộng của một thời
thanh xuân; nơi khóe mắt, làm môi, mái tóc, khuôn mặt, hình
dáng người tình giờ uớm thấy ẩn hiện
những nét hằn héo úa… Ngày gặp lại cố nhân, tuy
đang được ở cạnh kề nhau, nhưng
đã có một bức tường định đời
ngăn cách chia đôi ngả. Buồn hay vui? Chỉ có
người trong cuộc mới cảm nhận được
những cảm xúc bồi hồi lâng lâng luân lưu từ
tận đáy lòng mình, theo từng nhịp đập của
con tim thổn thức:
“Hôm nay đã đến thu
chưa
Trên sân đầy những lá vừa rơi qua
Nghiêng nghiêng bóng ánh trăng tà
Tàn phai từ độ người xa...chưa về
Mưa
rơi làm ướt câu thề
Giàn hoa tím cũng bốn bề gió bay
Khi nào mới tỉnh giấc say?
Luyến lưu gì nữa còn ai..?--nhớ mà....!
Gom
đầy kỉ niệm đôi ta
Mà đem hoả táng lệ nhoà tim đau
Tro tàn còn cất được sao?
Mỗi khi gió cuộn hạt nào...!? đã rơi....
Tiếc gì nữa cũng một
thời
Tiếc gì nữa một khoảng trời ..đã xa
Giữa trời với biển bao la
Thời gian chìm lắng cho ta--quên mình....!
( Thơ Bãng Nguyệt)
“Hoa
nở rồi hoa sẽ tàn
Tình yêu say đắm có khi tan
Chỉ riêng tình bạn là cao cả
Không tan không héo cũng không tàn”
“Cũng thì bạn gái với nhau
Gánh nước một bàu, đôi đục đôi trong.”
Hai người phụ nữ có
thiên duyên gặp gỡ thương mến nhau như
chị em một nhà. Các con trong gia đình được
cho phép gọi dì Hai là Mẹ.
Gia đình giữ khách ở
lại vài hôm chuyện trò tâm sự đầy vơi
nỗi niềm xa cách. Sau đó cả gia đình ông tháp tùng
dì Hai đến thăm viếng gia đình dì. Hai
người đàn ông cảm kích tấm lòng hào hiệp
của nhau, ngay từ phút đầu, tay bắt mặt
mừng, càng đổi trao tâm tình, lại càng cảm thông
của hai kẻ đồng hội đồng thuyền.
Họ nhận nhau làm anh em kết nghĩa. Người
chồng cũ của dì Hai là một người thác vác, có
nhiều sáng kiến trong công việc cải thiện canh
tác, sau ngày mẹ ông qua đời chẳng bao lâu, nông
trại của ông phát triển lớn mạnh, mang lại
cho ông nguồn lợi tức dồi dào. Ông nay trở thành
một người giàu có trong vùng. Ông đã khuyến khích
và tận tình giúp đỡ cho gia đình dì dượng
về mọi phương diện, cho nên qua một
thời gian ngắn gia đình dì Hai đã có những thay
đổi tốt trong đời sống và sinh hoạt.
Các con của hai gia đình
thương yêu kính trọng các bậc sinh thành dưỡng
nuôi, cả hai bên cha mẹ. Họ thân thiện với nhau,
giúp đỡ, chia sẽ vui buồn lẫn nhau trong tình gia
đình thân thuộc anh chị em một nhà trải qua
nhiều nghịch cảnh khó khăn đã xảy
đến cho quê hương đất nước và
nhất là sau cuộc đổi đời tháng Tư
năm 1975. Những người đã có tuổi, sức
mỏn hơi mòn sau gần cả một đời
lầm than lận đận, nay vẫn tiếp tục
gắng gượng đứng lên, góp hết tàn lực
còn lại để nuôi dưỡng đám con cháu, thay
thế cho cha mẹ của chúng đang chịu cảnh tù
đày vì sự khác biệt ý thức hệ của
những người “chiến thắng” từ miền
Bắc nước Việt. Bốn cha mẹ của họ
lần lượt qua đời. Họ lập bàn thờ
chung để cho những người quá cố lúc sinh
thời thương yêu nhau được mãi mãi ở
gần nhau. Một đại gia đình kết hợp
bởi những người không cùng chung máu mủ
huyết thống đã sống với nhau trong tình
người khó mà tìm được.
Tất cả những gì có trên
cõi đời nầy rồi cũng tàn lụng tan biến
sau chuỗi ngày ngắn dài nào đó. Có còn chăng là tình
nghĩa vô hình không bị mất đi do luật đào
thải tự nhiên của trời đất. Những
người có đầy tâm hồn vị tha bao la gặp
gở và sống với nhau trong tình người hiếm
có, họ đã vượt qua mọi trở ngại
phiền phức lẩn quẩn do chính người
đời tạo nên để tự ràng buột làm
khổ đau cho nhau từ đời nầy sang
đời khác./.