Thư Viết Từ Đường Heatherglen

 

Phạm Ngũ Yên

 

(riêng tặng Mục Sư Trần Xuân Hà)

 

Hăy để tôi như một cái ấn nơi ḷng chàng

Như một cái ấn trên cánh tay chàng

V́, Ái t́nh mạnh như sự chết

(Nhă Ca, đoạn 8 câu 6)

1.

Nơi một góc phố nh́n ra con đường chạy ngang khu Little Sài G̣n, hôm qua sương mù che kín một vùng công viên của người Việt Tị Nạn. Trạm xe buưt đầu ngày lướt thướt trái tim đầy những mưa bụi. Vài người Việt Nam ngồi co ro ngồi chờ xe nh́n ra ḍng mưa buổi sáng dưới những ngọn đèn muộn. Dưới những nụ hoa đêm c̣n khép nép trong khi cuộc đời mang trên vai nó một ḍng sinh lực không hề cạn.

Mỗi thành phố đều có một đời sống riêng và một dáng vẻ riêng. Westminster cũng vậy. Những cây Italian Cypres có những ngọn mượt mà xen lẫn những lùm cam trĩu trái, khi tôi trở về Cali. Tôi đi qua những con đường quen thuộc dẫn đến những địa chĩ mang hơi hám Việt Nam. Những linh hồn Sài G̣n và những trái tim miền Nam chứa đầy diệp lục tố.

Những con đường nào tôi đă đi qua lạ xa mà rất gần gũi. Những hàng quán mang dáng dấp một Sài G̣n- Chợ Lớn xưa. Nh́n đâu cũng thấy người Việt và người Tàu qua lại, mua bán. Cười nói. Nh́n đâu cũng thấy những ḍng chữ quảng cáo quen thuộc gợi nhớ một miền Nam sung túc an b́nh. H́nh như trên vỉa hè sáng nay, tiếng chim kêu không ngớt một thời mê sảng của quá khứ. Thời của những bàn tay nằm thổn thức trong những bàn tay. Cùng những bước chân quấn quít đuổi theo những thơ ngây đă mất. Từ mảnh sân nhà ai xanh rực một bờ cỏ tương tư, những chùm hoa thạch thảo đang trở trăn một mùa thu đă chết.

Không có hơi thuốc lăng mạn nào bay quanh quẩn trên chiếc khăn len người t́nh để nhớ về một vùng trời thanh xuân Đà Lạt, và tâm hồn ai đang nhức nhối một quá khứ  đau buồn. Hăy tưởng tượng một hôm nào trái tim không c̣n biết thổn thức một tín hiệu trong lồng ngực già nua khô khốc. Trong khi bàn tay run không thể vươn ra vói hái những trái cây đời. Hăy tưởng tượng một hôm nào đi qua khoảng sân xi măng quạnh hiu, nơi có những chiếc lá vàng khô mới vừa rụng xuống, ḷng trống vắng nụ hôn giờ chia tay. Và cuộc đời nghe áo năo những hồi kèn thua trận.

Buổi sáng nay cũng vậy. Ly cà phê ngập ngừng trên môi rét căm của người bạn và chúng tôi cùng ôn lại một chút quá khứ tàn phai của ngày xưa. Ngôi trường cũ. Thời mới lớn biết tương tư đuổi theo những tà áo dài trắng cùng lớp, ḷng không tin những chuyện hoang đường. Những bài thơ viết vội không dám trao đi v́ nghi ngờ ḷng thành khẩn của ḿnh không bay xa hơn nhịp đập của một cánh bướm. Năm một ngàn chín trăm sáu mươi lăm. Những người con gái ngày đó bây giờ vẫn c̣n đẹp khi gặp lại. Chỉ duy có t́nh yêu bớt đi những nồng nàn. Quá khứ nào cũng ủ chất men làm chết ngất những ly rượu đời và em sang sông như một loài sáo.

Có một chút lướt thướt của mưa và một chút gió thổi về làm ly cà phê lạnh tanh. Hai con chim bồ đậu trên chụp đèn trước một quán ăn. Chúng chia xẽ cùng nhau một chút rét mướt đồng lỏa. Bên kia công viên mặt hồ mù mịt như bị cuốn trôi theo những màn sương. Hai ṿm cây không c̣n lá cong đầu vào nhau. Hai người trẻ tuổi nơi cửa ra vào cũng châu đầu vào nhau thầm th́. Quá khứ son trẻ hiện về làm nhói một chút trong tim.

2.

Buổi sáng đầu tuần mát rượi một không khí Đà Lạt. Bậc thang mênh mộng về khu Chợ Ḥa B́nh đầy người. Thiếu vắng màu áo len xanh trên thềm đường dẫn xuống bến xe đ̣ trước rạp Ngọc Lan. Nắng trở ḿnh xô giạt những cánh lá. Tâm hồn tôi đang thênh thang một cơi sương mù mộng mị. Nghe lạnh ùa về làm nhớ một bàn tay.

Ngày nàng theo chồng không có một vuông thiệp gởi qua đường bưu điện. Người lính không đợi chia tay mới tập biết thất t́nh. Bài hát ngày nào nghe lạc lơng giờ nghe như ám đúng vào tôi:

Năm năm rồi không gặp

Từ khi em lấy chồng

Anh dặm trường mê măi

Đời chia như nhánh sông

Phong thư t́nh ngây dại

Và vai môi rất mềm

Những hẹn ḥ cuống quít

Trên lối xưa thiên đường

 

Ngày nhà em pháo nổ

Anh cuộn ḿnh trong chăn

Như con sâu làm tổ

Trong trái vải cô đơn

Ngày nhà em pháo nổ,

Tâm hồn anh rướm máu

Ôi nhát chém hư vô

.....

Anh một đời dong ruổi

Em tay bế tay bồng

Chiều hắt hiu xóm đạo

Hồi chuông giáo đường vang.

(Phạm Văn B́nh)

Khi tôi quen nàng, tôi chưa biết uống cà phê và chưa biết hút thuốc. Giờ khi xa nhau, tôi đă biết tường tận cả hai điều đó. Đời sống quân ngũ làm cho người ta tập nhiều thói hư tật xấu. Những đứa con trai vào đời mang trong ḷng một chút kiêu bạt. Một chút buông thả. V́ họ muốn làm người lính chai sạn, trưởng thành.

Một người đi là xa hẳn. Khó ḷng để t́m lại trong ư ức cũ một màu áo rực rỡ. Tôi nhớ tiếng cười của nàng trong veo giữa từng sợi nắng. Nàng đă mười tám hay mười chín tuổi? Đâu có ai đếm được thời gian trên môi của người con gái, khi tóc chưa cháy và má vẫn thắm màu? Nhưng đă có thời tôi uống say những hương sắc đó như người ta nhấp quá đà một hơi rượu cay.

Khi tôi biết về nàng, tôi chỉ là một gả con trai vừa rời bỏ tuổi thơ để cuốn theo ḍng đời. Qua những cơn mưa mùa thu úa vàng, mùa hè cũng vừa bằng bặt tiếng ve.

Tuổi thơ tôi chạy đuổi theo một con đom đóm lăng thinh bay qua vườn nhà ngoại. Ánh sáng thoi thóp từ bụng của nó làm đau mảnh trăng rằm. Bên giếng khuya ai khua gàu múc nước?

Tuổi thơ tôi cũng chạy đuổi theo cánh diều chao đăo trên không. Đuôi của nó vướng víu trên hàng dây điện. Tôi buồn như chưa hề biết vị ngọt của đời. Thời gian sững sờ khôn lớn.

Người đàn bà ra khỏi đời một người đàn ông, luôn để lại những băo tố.

 

T́nh ta như hàng cây

Đă yên mùa băo gió

T́nh ta như ḍng sông

Đă yên ngày thác lũ

 

Thời gian như ngọn gió

Mùa đi cùng tháng năm

Đuổi theo mùa đi măi

Chỉ c̣n anh và em

Cùng t́nh yêu ở lại

 

Ḱa bao người yêu mới

Đi qua cùng heo may

Chỉ c̣n anh và em

Cùng t́nh yêu ở lại...

(Xuân Quỳnh)

3.

Ngồi bên nhau trong quán cà phê giữa một ngày mưa băo, đôi lúc chúng tôi không nh́n thấy hết được vẻ diễm lệ của thành phố California. Con đường Westminster đang có những cây anh đào non mới vừa ra hoa. Đây là lần thứ hai chúng tôi gặp nhau tại Quận Cam. Và là lần cuồi cùng gặp nhau trong đời.

Anh Trần Xuân Hà đang là một Mục Sư Baptism. Ngày c̣n ở Việt Nam tôi và anh là hai tín đồ Tin Lành. Cùng có chung một quá khứ sôi nổi những mối t́nh bèo bọt. Cùng khoác áo Truyền Tin khi vào quân ngũ. Cùng làm việc chung một quân trường. Anh bên Trợ Huấn Cụ của Trường. C̣n tôi Huấn Luyện Vô Tuyến Viễn Ấn. Anh giải ngũ trước tôi vài năm v́ phổi của anh có vấn đề- nghĩa là có vết nám- Anh là một người rất đẹp trai. Ngày c̣n học Trung Học, anh có h́nh chụp được trưng bày làm mẫu tại tiệm ảnh Tây Hồ, trước pḥng Thông Tin Vũng Tàu. Bây giờ, nh́n lại, thấy anh vẫn c̣n những nét quyến rũ của một người đàn ông đẹp trai. Ngoài vẻ đẹp của dung mạo, anh c̣n chụp h́nh, vẽ rất giỏi và biết thêm điêu khắc. Đă nhiều lần, anh dùng bàn tay tài hoa của ḿnh để trang trí nhà thờ trong những dịp lễ lạc. Nét cọ của anh xữ dụng mang một màu sắc mạnh mẽ, dứt khoát. Giống như tính t́nh anh.

Cũng nên nói thêm một tài năng khác ở anh là anh nói chuyện rất lưu loát. Chính điều này đă nhen nhúm trong ḷng anh ước vọng trở thành Mục Sư sau này.

Sau ngày miền Nam sụp đổ, tôi trở về Vũng Tàu sống cùng gia đ́nh. Gặp anh đang trở thành thợ sửa đồng hồ. Tiệm tạp hóa Hồng Hoa đă không c̣n bán đồ tạp hóa. Anh là con trai lớn của ông bà Hồng Hoa và có một bàn sửa đồng hồ tại đó. Nhiều khi đi ngang tiệm, thấy anh đang chăm chú sửa chữa, bất chợt anh nh́n ra thấy tôi. Tôi ghé lại ngồi nói chuyện mưa nắng cùng anh. Những chuyện đổi đời, chuyện ai c̣n ai mất. Những ḷng người mênh mông mà trái tim như neo thuyền, không bến đậu. Những ngày Chủ Nhật ngồi cùng anh trong nhà thờ Tin Lành. Sau đó ra ngồi ở quán cà phê của Tăng Nhuần. (quán cà phê chỉ bán buổi sáng và đóng cừa sau mười hai giờ trưa, nằm trên góc đường Lư Thường Kiệt và Nguyễn Thái Học, kề bên hăng nước đá Nam Long). Đôi khi chúng tôi ra ngồi ngoài băi biển, buổi chiều sau khi rảnh việc. Anh có một ước mơ b́nh dị nhưng cũng rất lăng mạng khi một lần anh tâm sự với tôi là, bao giờ được định cư tại Hoa Kỳ, hành động đầu tiên là anh và tôi sẽ gặp nhau dưới chân Tượng Nữ Thần Tự Do ở Nữu Ước. Chúng tôi sẽ sờ tay lên trên những phiến đá mang hơi thở cũa Tự Do. Để biết rằng đời sống này Hạnh Phúc không phải là điều không thể với tới được. Hạnh phúc là một điều có thể sờ thấy được bằng tay và nh́n tận mắt.

Rất tiếc, mơ ước tầm thường đó không xăy ra. Không bao giờ có dịp xăy ra.

Chúng tôi cùng được định cư tại Hoa Kỳ trước sau một năm. Anh đi theo diện ODP, do nhạc phụ anh là ông Trần Văn Thông (?) bảo lảnh. Ông Thông là cựu Huấn luyện viên đội tuyển túc cầu quốc gia thời Đệ nhị Cộng ḥa. C̣n tôi đi theo diện PIP, v́ vợ tôi làm việc cho chính phủ Hoa Kỳ.

Chúng tôi không tiên liệu được những khó khăn về công việc làm ăn, về những dịp tiện để có thể đi từ tiểu bang này sang tiểu bang khác. Nó không đơn giản như một người Việt Nam đi từ Vũng Tàu lên Sài G̣n hay từ Sài G̣n lên Đàlạt. Nước Mỹ bao la quá. Cơ hội và thời gian có thể đến với người này mà không đến với người kia.

Lúc tôi c̣n bận bịu sinh kế tại Austin, th́ nghe tin anh vào học ở Thần Học Viện Tin Lành. Một thời gian sau anh trở thành Mục Sư Hội Thánh Baptism tại vùng Norway, California, cách Santa Ana về phía Bắc chừng 30 phút lái xe.

Về Cali thăm anh lần thứ nhứt, tôi có nhắc đến chuyện gặp nhau dưới chân Nữ Thần Tự Do. Anh chỉ cười và nói ḿnh chờ một ngày nào khác. Cuộc đời c̣n dài mà. Quả cuộc đời cũng c̣n dài thật. Năm đó chúng tôi chưa đến 60.

Một hôm, trên đường điện thoại viễn liên có tiếng của anh gọi đến: “Tôi đi thư viện Norway thấy tác phẩm Hoa Bluebonnets Cho Hai Người của anh trong đó”. Tôi ngạc nhiên: “Làm sao sách của tôi lại trôi giạt đến đó được?” “Không biết” Anh trả lời. “Norway là một quận nhỏ mà có sách của anh th́ hi vọng nơi khác cũng có”. Tôi đáp: ”Hi vọng như vậy”...

Lần khác, anh cũng gởi đến cho tôi sự ngạc nhiên, cũng trên đường dây viễn liên: “Tôi mới vừa nghe Bích Huyền đọc bài thơ của anh trên đài VOA”.” Bích Huyền là ai?” Tôi hỏi. “ Là người phụ trách chương tŕnh phát thanh đài VOA bằng Việt Ngữ tại quận Cam”. ”Bài thơ tựa ǵ vậy?”.”Tôi không nghe kịp. Anh Hà trả lời. Tôi ở ngoài sân bước vào th́ nghe bài thơ đang đọc. H́nh như nội dung đề cập đến sinh nhật của con gái anh. Chị Bích Huyền đưa lên chương tŕnh nhân ngày Father’s Day, cùng với một số bài thơ khác. Chị ấy cũng không biết anh ở đâu nên có vài lời xin lỗi tác giả”. “Khỏi cần. Mai mốt qua Cali tôi t́m gặp cô ấy để bắt cô dẫn chúng ḿnh đi uống cà phê”.

Tôi nhớ bài thơ tôi viết trong thời điểm lang thang ở Sài G̣n, trong những tuần lễ trước khi rời Việt Nam. Tôi viết một mạch bên hông Nhà Hát Lớn (Hạ Nghị Viện). Giữa tiếng rao vặt, tiếng xe cộ huyên náo, tiếng cười nói của những trẻ nhỏ chơi quanh đấy. Bầu trời xanh chới với những đám mây trên đầu. Có tiếng chim ríu rít trên một khung cửa ṭ ṿ. Bàn chân ai vừa dẫm lên những vĩa nhựa đường nóng bỏng, thoi thóp một thời phồn hoa.

Bài thơ nói lên tâm sự của một người cha trong thời đại xă hội chủ nghĩa Việt Nam, nghèo túng không có tiền để mua cho con món quà ngày sinh nhật. Bài thơ gởi đăng trên báo Văn của Mai Thảo, tháng 8 năm 1991, có tựa là “Mùa Mạc Lan Cuối Cùng”. Mạc Lan là tên của một loại lan hoang dă bên vệ đường Đà Lạt. Có thể Bích Huyền trích từ những trang báo đó chăng?

Sau này khi trở lại Cali lần thứ nh́. Tôi và anh Trần Xuân Hà và Bích Huyền t́nh cờ găp nhau nơi ṭa soạn Nhật Báo Người Việt, đường Moran. Chị Bích Huyền đặt đài phát thanh trong cơ sở của nhật báo Người Việt. Mỗi buổi sáng chị đến đó để làm chương tŕnh phát đi. Giống như một định mệnh. Tôi nhắc lại bài thơ. Nhưng Bích Huyền đang bận nên không đưa chúng tôi uống càphê như tôi đ̣i hỏi. Tôi cho chị nợ và nói thêm “kiếp sau sẽ trả”. Bích Huyền lúng túng không dám trả lời. Văn chương chữ nghĩa đă là một cái nợ đời. Tại sao lại c̣n làm khó khăn nhau bằng một cái nợ khác? Tôi nghĩ và đọc thơ Nguyễn Bính:

Ḷng tôi rối những tơ đàn

Cao vời những ước đầy tràn những mơ

Ḷng cô chẳng có dây tơ

Ước th́ thật thấp mà mơ thật nghèo

 

Hồn tôi giếng ngọt trong veo

Trăng thu trong vắt biển chiều trong xanh

Hồn cô cát bụi kinh thành

Đa đoan vó ngựa chung t́nh bánh xe.

 

Rời khỏi ṭa soạn báo Người Việt, tôi và Trần Xuân Hà đi uống cà phê.

Vẫn quán cà phê quen lần trước. Trần Xuân Hà vẫn tươi tắn tráng kiện. Vài câu nói đùa với nhau trong khi kư ức vỡ ̣a những chuyện xưa. Những chuyện không đầu đuôi và cũng không có thứ tự. Nhớ đến đâu chúng tôi nói đến đó. Mái tóc của anh lúc đó đang sớm những sợi bạc bên thái dương. C̣n tôi, may mắn hơn và chỉ có một vài sợi bạc vài năm sau, khi xăy ra biến cố 9-11. Nhưng đă có một chút mông mênh của sóng trong tâm hồn hai chúng tôi. Đă già quá rồi phải không? Tôi hỏi. Anh cười: “Người xưa nói 60 mươi năm cuộc đời. Người nào qua tuổi 60 mà c̣n tồn tại năm nào th́ coi như được Bonus của Chúa năm đó”.

Tôi không nghĩ đó là câu nói hay nhứt và cuối cùng của một người bạn nói cho một người bạn. Nhưng bây giờ hồi tưởng lại, đó là câu nói hay nhứt của anh mà tôi nghe được. Đôi khi tôi không nghĩ anh là một Mục Sư. V́ tâm hồn anh c̣n lăng mạn quá. Anh chưa đứng hẳn về một phía nào của cuộc đời. Giữa trần tục và thanh thoát. Giữa đạo và đời. Nhưng tôi vẫn thấy mến anh nhiều nếu anh vẫn là một tín đồ đơn thuần như ngày c̣n ở Việt Nam. Tôi sẽ thoải mái san sẽ ḷng tôi với một người bạn thân thay v́ phơi bày ra với một ngườiChủ Chăn Bầy. Tôi cũng sẽ sôi nổi để bàn luận cùng anh về những nhân sinh quan không trang trải một niềm tin nào, ngoài niềm tin về con người và cuộc đời. Tôi sẽ mạnh dạn ngồi xuống với anh trong một quán xá bên đường và ồn ào kêu một hai chai bia để cùng cụng ly như ngày xưa từng ngồi tại bờ biển cũ. Tôi sẽ nghe giống với anh nhịp đập thổn thức từ một buồng tim non yếu, giống như nhịp vỗ triền miên của sóng vào ghềnh đá. Vào khoang thuyền. Trong khi cuộc đời ngây ngất ngoài kia.

Đôi khi chúng ta không đi qua đời sống này bằng một khung cửa hẹp, như khung cửa của Chúa Giêxu từng khuyên bảo môn đồ. Nhưng chúng ta sẽ khó ḷng vượt qua những bất hạnh, những chông chênh với cơi ḷng thanh thản để ca ngợi hạnh phúc luôn miệng. V́ chúng ta là con người trần trụi trước những cám dổ dung tục.

Cho nên, tôi không thể không đau ḷng khi nghe tin người bạn thân, Mục Sư Trần Xuân Hà đă đột ngột về với Chúa.

Anh được Hội Thánh Baptist tại vùng Waynesville, North Carolina mời về giảng Lời Chúa. Đang lúc đứng trên bục giảng sáng ngày chủ nhật cuối tháng 5. 2005 anh đă quỵ xuống v́ chứng tai biến mạch máu năo. Trên đường đưa vào bệnh viện, anh đă mất.

Chúa đă rước một tôi tớ Chúa về nhà của Ngài một cách yên thắm.

H́nh ảnh của anh Trần Xuân Hà trong phong cách hầu việc Chúa, gợi tôi nhớ về những nén bạc và người quản gia trong Kinh Thánh. Thiên Chúa đă đặt trong tay anh tài năng, ân tứ và việc phụng sự Ngài. Giống như những nén bạc để anh làm hành trang trên đường Thiên Lư. Anh đă làm hết sức của anh và kết quả là những nén bạc đă sinh lời cho Ngân Quỹ Nhà Chúa. Cánh đồng của Chúa đă chín vàng. Nhưng con gặt th́ thiếu. Ngày niên thiếu anh mơ ước được làm một con gặt của Chúa trong mùa gặt, gánh những hạt lúa bội thu về cất trong nhà kho Trên Trời. Những mơ ước khi c̣n ở quê nhà kia là những mơ ước không vinh quang và rất nhục nhằn- đă chạm đến tầm tay anh khi ra hải ngoại. Nhưng buồn thay, Quỹ Thời gian dành cho anh th́ đă hết. Anh lặng lẽ và tuân phục trở về với Chúa.

Khi viết những ḍng này, tôi lục lại trong tài liệu cũ lưu trong computer của ḿnh, t́m thấy những ḍng tâm sự anh viết cho bạn bè, cho ngôi trường miền biển của chúng tôi, cho một t́nh yêu mờ nhạt thời niên thiếu. Anh cũng viết cho vợ ḿnh, người phụ nữ thủy chung đi cùng anh suốt một đời thăng trầm, qua những đổi thay vinh nhục. Những ḍng tâm sự chói ḷa một định mệnh và cũng khép lại một định mệnh. Tôi xin trân trọng gởi đến bạn đọc đă từng yêu mến văn chương tôi, hăy đọc ở anh, để nh́n thấy một mặt khác của đời sống trong đó. Để ngậm ngùi với một ḷng thuyền không kịp chở hết một mùa trăng.

Những ḍng tâm bút của anh, rất ngắn. Nhưng chín ững một t́nh người.

Xin trích từ Trần Xuân Hà:

NHƯ CHUYỆN CỔ TÍCH (Vài kỷ niệm vụn vặt, xin dành cho những người t́nh cũ)

1. Gợi Nhớ Ngày Xưa

Hôm nay 28- 04, một trong những ngày dân ḿnh lưu lạc tại Hoa kỳ và nhiều nơi trên thế giới, kỷ niệm năm thứ 28 ngày bắt đầu bỏ nước ra đi.

T́nh cờ đọc các thơ trao đi gởi lại của các người bạn (bạn của bạn ḿnh), những người từng cùng chia sẻ buồn vui dưới mái trường Trung Học Vũng Tàu thân yêu, khi họ t́m cách nối lại sợi dây liên lạc đă đứt, hoặc gián đoạn, khi “on” khi “off” từ gần ba mươi năm nay, ḷng ḿnh se lại, dường như có một chút buồn len lén bước vào tim, phải chăng đó là kỷ niệm tuổi học tṛ?

Các bạn thân mến, có lẽ ḿnh cũng từng ngồi chung một bàn, cùng chung một lớp, học chung một thầy với một số lớn các bạn có tên trong các thơ đó; nhưng không phải Trung Học Vũng Tàu, khi mà cơ sở nhà trường đă được xây thành h́nh chữ L (với hàng chữ đắp bằng xi-măng khá lớn bên cánh dơi: TRI ÂN THIẾU TƯỚNG LÊ VĂN VIỄN), hay h́nh chữ U như sau nầy; mà lúc nó chỉ mới được xây lại v́ đổ nát, sau trận bom đồng minh đánh hụt thành “Ông Dem” (11ème R.I.C.) bên kia đường, năm 1945.

Bấy giờ ngôi trường chỉ có một dăy, song song với Rue De Laboussière (nay là Đường Lư Thường Kiệt), có bốn lớp học, kể cả Lớp Tiếp Liên do Thầy Minh “Rờ Que”, ở đầu dăy, gần sân bóng chuyền và Văn pḥng Hiệu Trưởng.

Đọc “ké” thơ các bạn gởi cho nhau, kỷ niệm thời thơ ấu chợt về trong tôi. Phải chăng kỷ niệm “ăn theo” hay chính là kỷ niệm của riêng ḿnh? Tôi tưởng ḿnh vẫn đủ tư cách hoài niệm về ngôi trường cũ đầy kỷ niệm đó kia mà!

2. T́nh Chỉ Đẹp Khi C̣n Dang Dở

Câu thơ nầy, cho đến hôm nay, hơn nửa thế kỷ sau khi được thi sĩ Hồ Dzếnh viết ra, tôi thấy vẫn c̣n hợp thời. Đọc thơ các bạn, ḿnh nhận ra trong từng câu gợi nhớ, một bàng bạc nuối tiếc những cuộc t́nh không trọn. Nào là mối t́nh vô vọng với hoa khôi lớp học của người con trai đầy mặc cảm thua thiệt; t́nh sôi nổi như cơn sóng (thần) ngầm của cô học sinh mới lớn, với người thầy trẻ vừa ra trường; t́nh cao thượng của người học tṛ với ông thầy cũ trong vai tṛ đồng nghiệp, gặp lại nhau tại một tỉnh lỵ miền cao. Ôi! Có ǵ hạnh phúc cho bằng “Tha hương ngộ cố tri”. T́nh của những bạn ráp nhau thành cặp uyên ương xứng lứa vừa đôi, từng làm ganh tị nhiều bạn trang lứa, những tưởng họ sẽ d́u nhau đi suốt cuộc đời, nhưng lại găy gánh giữa đường, và cũng phải kể luôn đến những mối t́nh chung thân (khổ sai hoặc hạnh phúc) cho đến ngày nay. Tất cả những cuộc t́nh thành hay bại đó cũng đều để lại dấu ấn khá đậm trong tim người trong cuộc, và bây giờ nếu được phép hỏi lại, có lẽ tất cả đều biểu tỏ nuối tiếc những xúc cảm thơ ngây ngày nào, mong ước gặp lại nhau để nh́n lại h́nh bóng cũ.

Thiển nghĩ, các bạn tiếp tục gặp nhau trên E-mail như bấy lâu nay, h́nh ảnh người trai hào hoa, hùng dũng, người em nhỏ bé, dịu dàng, thơ ngây sẽ vẫn c̣n sống măi trong tâm khảm; nhưng nếu gặp nhau chắc sẽ không ít thất vọng. Thà đừng gặp nhau có lẽ tốt hơn. Thật, “t́nh chỉ đẹp khi c̣n dang dở”!

3. Con Đường Mang Tên Em

“Con Đường Mang Tên Em” là tựa đề bản nhạc rất phổ thông đầu thập niên 60. Bài hát bắt đầu bằng câu: “Kể lại chuyện hai chúng ḿnh, khi em với anh...” Các bạn đă nhắc lại chất giọng khàn đục của Kim Hoa, cô ca sĩ học sinh đầy triển vọng, từng làm nhức nhối nhiều con tim mới biết yêu. Cho đến hôm nay, tuổi ḿnh đă vào ngơ “tri thiên mạng”, mà vẫn c̣n nhớ ngày đó như mới hôm nào. Đó là chuyện hai chúng ḿnh trong bản nhạc, c̣n chuyện của riêng hai chúng ḿnh cũng không phải là chuyện vui, cuộc t́nh chúng ḿnh không là cuộc t́nh lăng mạn; nhưng chắc chắn là thơ mộng. Thơ mộng v́ nó không phải là t́nh đầu của anh và em, mà cũng không phải là cuộc t́nh cuối để thành vợ chồng. Nó thoảng qua cuộc đời ḿnh như ga xép dọc đường tàu, h́nh như có một chút thiếu hụt và uẩn ức bàng bạc nào đó mà anh không nhận ra.

Ngày xưa, như chuyện cổ tích, có một chàng họa sĩ lăng tử, phiêu bạc giang hồ, đến khi mỏi gối chồn chân, dừng lại quê nhà, gặp người con gái vẫn c̣n dáng dấp e dè vụng dại và (khi không lại....) thương người ta. T́nh yêu nhẹ nhàng và trong sáng, không tỏ t́nh, không ước hẹn. Cũng v́ mối t́nh pha-lê đó, chàng ghi lại trên khung bố, bằng chất liệu sơn dầu, cảnh con đường nhỏ, hai bên hai hàng bàng lá đỏ đặc thù quê hương, và ngay điểm mạnh của bố cục 1/3, là người con gái trong tà áo dài màu huyết dụ, đang bước đi mờ ảo gần cuối đường, như điểm hẹn cuộc đời chàng chọn. Nếu bức hoạ sơn dầu đó đáng gọi là tác phẩm, th́ tác phẩm có tên là “Con Đường Mang Tên Em”. Nhưng thực tế không hay ho như vậy, “Đường chẳng riêng hai chúng ḿnh, nên khi vắng anh, đường đă thay tên”.

Bức tranh hiện không biết vào tay ai. Con đường đó ngày nay vẫn c̣n bên chân Núi Lớn quê ḿnh; chàng hoạ sĩ đó, giờ đây tóc đă điểm sương, có lần trở về thăm lại con đường xưa, ḷng chàng ngậm ngùi v́ mọi vật đều đổi thay. “Người xưa năm ấy, nơi nầy c̣n đâu!” (Thơ TXH)

4. Người Em Gái Tôi Thương

Tôi không tin số mạng, nhưng dường như có một trùng hợp ngẫu nhiên giữa tên em và cuộc đời. L.H., tên em có nghĩa là biển nước mắt, vậy làm sao vui cho được?

Những ngày chớm thu, Vũng Tàu không vui cũng không buồn, trời chỉ chợt nắng chợt mưa, chỉ có tiếng xào xạc lá bàng rơi, thuỳ dương vi vu trong gió.

Lần cuối ngồi với em tại sinh tố Phương Lan, đầu chợ cũ, gần mười một năm trước, là một chiều thu như vậy. Im lặng thật lâu, em chỉ hỏi tôi: Hôm nào anh chị đi? Tôi trả lời bâng quơ: Vài hôm nữa. C̣n tôi, thay v́ hỏi thăm gia đ́nh em, về Phát, chồng em, tôi chỉ hỏi: Em lúc nầy ra sao?

Hôm đó vai em gầy hơn, đôi tay em mảnh hơn trong một cơ thể vốn đă gầy và mảnh mai từ nhỏ. Em cho biết là em đang đau. Từ lâu, anh biết sức khoẻ em không tốt lắm, mà hạnh phúc cũng không trọn vẹn. Anh cũng chẳng hỏi em đau ra sao.

Cũng tiếng nói ngập ngừng như ngày đầu gặp anh, giọng kim pha đồng đó, cũng đôi mắt u uẩn đó, nhưng ngày xưa, khi trên sân khấu, em hát nhạc t́nh với tất cả trái tim rực lửa của người con gái thời chiến loạn. Anh từng ngồi nghe em hát; nhưng chưa bao giờ là thính giả của em tại Trúc Giang, nơi mà bấy giờ hằng đêm em có một vai tṛ khá bận rộn, nơi mà Thái Châu cũng từng có mặt; nhưng nhiệm vụ anh chàng vẫn c̣n nhỏ bé lắm so với em.

Mẹ em thương anh, anh Long của em cũng mến anh. Long và anh học chung nhau từ lớp Ba tại trường sân vận động, từ khi gia đ́nh em rời Sa-đéc đến đây định cư. Các anh gọi anh Long là Long Sa-đéc, để phân biệt với Long B́nh-mực là vậy. Từ đó, Long và anh học với nhau đến hết tiểu học. Sau nầy, kẻ trước người sau vào quân ngũ, chúng anh gặp lại nhau trong quân trường và chung ngành chuyên nghiệp.

Ngày đó, thỉnh thoảng đêm đêm, anh và các bạn đồng ngũ ghé qua quán nhà của má em ăn chả gị. Món chả gị bà làm ngon thật, cuộn chả nóng hổi ḍn tan, thấm đẫm nước chấm vừa miệng. Lúc bấy giờ anh như người trong gia đ́nh em. Có thể lắm, má em và Long cũng muốn anh trở nên thành viên của gia đ́nh bà. Anh thương em từ đó.

Về t́nh yêu và t́nh thương anh rất rạch ṛi; với em, anh không bước qua ranh giới t́nh yêu mà chỉ dừng tại vị trí t́nh anh em thuần khiết, và bằng t́nh cảm đó, anh giữ măi cho đến ngày nay.

Em vẫn là “người em gái tôi thương”.

5. Những Cây Điệp Sân Trường.

Những cây điệp trong sân trường chúng tôi, bông điệp không là loại bông đẹp, chỉ là những sợi tua tủa non mềm như chùm bông ráy tai của người thợ hớt tóc; tôi c̣n nhớ như in, đến mùa, rụng tím sân chơi. Chúng tôi thường gọi loại điệp nầy là cây c̣ng, hay cây me tây. Không biết nó có mặt nơi đây tự bao giờ; nhưng lúc chúng tôi lên lớp nh́, lớp nhất, được về đây học, th́ đă thấy chúng nó đứng đó, và bấy giờ, thân cây đă cằn cỗi, vỏ cây cũng đă nức nẻ, xù x́ lắm rồi.

Hai hàng điệp im lặng đứng đó, đă là chứng nhân nhẫn nhục của nhiều thế hệ tuổi trẻ Vũng Tàu, vô t́nh đến, rồi đi như những ḍng sông nhỏ.

Tôi chỉ biết lớp cao nhất và xưa nhất tại đây, dưới tàn điệp nầy, là lớp Nhứt ông Đốc Dương (1947-1948). Thầy Dương mặc quần short, áo chemise tay ngắn, giày Bata. Thầy dạy thật giỏi, thường ngồi trên bureau khảo bài học sinh, tṛ nào được gọi lên bảng, mà làm sai, thầy phóng xuống, đá vào... đít, bất kể nam nữ, làm cô cậu học sinh chúi nhũi. Giờ đây, nhớ lại những ngày ấy, ḿnh thấy thầy cô quá nặng tay với học tṛ; nhưng đó không phải là những trận đ̣n hận thù, mà là yêu thương. Từ lớp của thầy, sau nầy có những người ra đời thành đạt, như Bác Sĩ Quân Y Trần Cao Đễ, Dân Biểu Hồ Văn Minh, Nhạc sĩ Khánh Băng, Mục sư Trần Văn Lang, và nhiều... nhiều anh chị khác nữa, trong thương trường, giáo dục và nhiều lănh vực khác.

Hai hàng điệp vẫn đứng đó, vẫn chứng kiến các lớp anh chị ra đi, lớp anh chị mới đến, tới thế hệ chúng tôi, rồi các em, cũng tiếp tục đến rồi đi...

Những năm tôi học nơi đây (1952-53), trường chỉ dành cho nam sinh cấp tiểu học. Dưới bóng điệp già nầy, chúng tôi chơi đánh trổng, bắn đạn cu-li, đánh bông vụ, lại c̣n đá banh nữa. Nhưng nhộn nhịp nhất là thời gian Thầy Đoàn Kỳ Quận, mà chúng tôi thường gọi thân mật là Anh Ba Quận, vừa tốt nghiệp Trường Thanh Niên Thể Thao Trung Cấp, về làm Huấn Luyện Viên Thể Dục, kiêm Văn nghệ cho nhà trường. Ngày ấy, sân chơi, giữa hai hàng điệp, nhà trường dựng lên khung sắt lớn dành cho môn leo giây, hai bên có xà ngang, xà đôi, gần đó có hố cát hỗn hợp cho hai bộ môn nhảy cao và nhảy xa, lại c̣n có một giàn đu gỗ nữa. Từ đó, nơi đây, cũng dưới sự chứng kiến lặng lẽ của hai hàng điệp nầy, chúng tôi thích thú được Anh Ba Quận “hành hạ”. Làm sao không thích thú cho được, khi bọn con trai chúng tôi được tung tăng thoả thích trong giờ thể dục?

Giả từ Tiểu học, chúng tôi ra đi như đàn chim nhỏ. Một số đông các bạn ở lại chờ trường mở cấp Trung học, nên phải chịu trể mất một năm. Trường Trung Học Vũng Tàu bắt đầu thành h́nh với mấy lớp Đệ Thất. Những năm nầy, hàng điệp già bắt đầu được chứng kiến những tà áo dài trắng nho nhỏ dễ thương, thấp thoáng trong sân chơi; nhưng có thể chưa có mối t́nh con nào xuất hiện, cho đến vài năm sau nầy.

Ngày đó, tôi không c̣n ở đây, nhưng chắc chắn dưới bóng hàng điệp im ĺm nhẫn nhục, có những cuộc t́nh đầu đời nở hoa, những ḥ hẹn, những lá thơ nắn nót trên giấy học tṛ, trao vội cho nhau, cũng có những nụ cười và nước mắt của các bạn, của các em.

Thời gian b́nh thản trôi qua, các thế hệ học sinh cũng qua rồi lại qua. Thời cuộc đẩy đưa, hôm nay, một số các bạn vẫn ở lại quê nhà, số khác “lang thang như người Do-thái”, lưu lạc kẻ đông người tây trên khắp cùng trái đất, cũng không ít bạn đă đi về cơi vĩnh hằng b́nh yên; nhưng hàng điệp ngày nào vẫn đứng đấy, vẫn tiếp tục làm chứng nhân cho các thế hệ con cháu chúng ḿnh.

Hàng điệp già vẫn c̣n đó!

TXH (May, 2 .2003)

Những ngày mưa băo Cali

Em yêu dấu,

Dường như lâu lắm rồi, anh không c̣n thói quen viết cho em những ḍng chữ thế nầy, như anh đă từng làm trong thời gian đầu ḿnh mới quen nhau.

Trời Cali hôm nay chớm thu, dù ánh nắng hạ gay gắt vẫn c̣n lẫn khuất đùa nghịch, chợt đến, chợt đi, như tính nết bất thường đáng yêu của cô bé mười bảy năm nào.

Hơn ba mươi năm rồi chớ ít ỏi ǵ, nhưng anh thấy dường như chỉ mới hôm qua. Ngày đó, Saigon cũng vừa vào thu, nắng đă dịu, nhưng bầu không khí vẫn c̣n nồng mùi đất ẩm sau cơn mưa. Em tṛn mười bảy, anh hơn hai mươi. Lẽ ra với tuổi đó, em vẫn c̣n được ngồi trong lớp với các bạn; nơi đó, sau hàng song vuông cửa sổ, em vẫn có quyền thả hồn mơ mộng, dành đôi phút nh́n ra khoảng trời thênh thang, bên kia đường Phan Thanh Giản, ngắm hàng sao đen, nghe lá nhỏ tâm sự ŕ rào; ḷng em có thể chùng lắng khi chợt nghe tiếng chuông chùa Xá Lợi bên kia hông trường vọng lại, để liên tưởng đến tiếng chuông chùa Long Giáng trong Hồn Bướm Mơ Tiên. Em có quyền, em có quyền tiếp tục hưởng cuộc sống êm đềm b́nh thường như bất cứ thiếu nữ nào.

Nhưng số phận đă an bài, mẹ em đột ngột ra đi, và đây cũng là lư do em phải từ giă khung trời mơ mộng, rủ bỏ ước vọng tương lai, như rời khỏi tấm thảm hoa đang dệt dở dang trên khung cửi. Em phải rời bạn bè, rời trường lớp thương yêu, rời tổ ấm gia đ́nh, để ra đi t́m sống, như chim non lạc đàn trong băo tố. Trong cơn băo đó, em gặp anh.

Ngày đó, anh cũng đă rời ghế nhà trường để vào quân ngũ như các bạn anh, như các thanh niên thời chiến. Anh gặp em, chúng ḿnh gặp nhau và yêu nhau. Anh không nghĩ chuyện chúng ḿnh là ngẫu nhiên. Mối t́nh của chúng ḿnh không suông sẻ ǵ, nó cũng trắc trở, và đầy thử thách. Nhưng để bù lại những bất trắc đó, nó cũng lăng mạn, dễ thương. Và như em thấy đó, chẳng những chỉ lăng mạn và dễ thương thôi đâu, chúng ḿnh cũng c̣n được hưởng phần thưởng quí giá: dường như mỗi chúng ta là con h́nh trong tṛ chơi Puzzle, mà chú bé vui mừng t́m được đúng hai mănh ráp khớp vào nhau, hai nửa mảnh đời đă t́m được nhau để trở nên một.

Những ngày mới quen nhau, anh về lại Saigon của anh thời học sinh, cũng là Saigon của em thời hoa mộng, cũng là vùng trời chung của nhiều tâm hồn riêng lẻ. Anh đưa em thăm lại những kỷ niệm ngọt ngào của em, kỷ niệm đời học sinh lưu trú của anh. Chúng ta uống lại ly nước mía Viễn Đông, t́m hương thơm vị ngọt ngày cũ; chúng ḿnh đứng bên cội me già, ăn miếng phá lấu, viên ruột vịt, quấn cặm vào que tăm, giản dị b́nh thường. Em yêu dấu, c̣n nhớ không, những chiếc bánh ḿ cóc Bưu điện, dĩa cơm gà xé Thanh Bạch, ly sữa “soóc” Xuân Hương, cốc kem Brodard, những món ăn thật tầm thường, nhưng ngày đó sao ngon quá đi thôi! Bấy giờ, đối với chúng ḿnh, sơn hào hải vị của vua chúa ngày xưa, yến tiệc linh đ́nh ngày nay, chắc chắn không thể nào ngon hơn. Ôi! Nhà ảo thuật đă có thể làm chiếc khăn tay biến thành con bồ câu trắng bay ra khỏi chiếc nón như thế nào, th́ t́nh yêu và kỷ niệm của chúng ḿnh cũng đă biến những điều đơn giản thành quí giá, và hạnh phúc thăng hoa như vậy đó!

Hôm đó, từ nhà Brodard, tay trong tay, chúng ḿnh lang thang trong ḷng phố hẹp, khu phố cũ có một chút dáng dấp Paris, lại c̣n có lá me bay bay trong nắng ấm nữa. Chúng ḿnh ghé qua Pḥng Thông tin Đô thành, góc Lê Lợi - Tự Do, nơi thường triển lăm tranh ảnh. Hôm đó, người ta đang trưng bày ảnh nghệ thuật dự thi. Ḿnh đến đây như những khách thưởng ngoạn vô t́nh. Cũng vẫn tay trong tay, chúng ḿnh nhởn nhơ ngắm từng tác phẩm mà không sợ thời gian phiền nhiễu. Ḿnh c̣n nhiều th́ giờ bên nhau mà! Phải không em?

Bấy giờ, dường như em đặc biệt chú ư đến những tác phẩm mà tác giả đă hào phóng dành quá nhiều cho những khoảng không gian, mà chủ đề lại bé nhỏ một cách không cân xứng. H́nh như em xúc động. Em thắc mắc tại sao tác giả lại chịu chụp ảnh một hai người nhỏ tí tẹo, đang gánh gồng, bước đi tại một điểm nào đó giữa đồi cát bao la? Tại sao họ ghi lại h́nh ảnh chiếc thuyền nhỏ bé đang nhảy sóng, như chiếc lá nhỏ trong chảo dầu sôi, được cố ư đặt tại một trọng điểm mà chung quanh chỉ là mây nước? Tại sao tác giả tấm ảnh kia lại cho chú bé lui cui bắt ốc tại một nơi xa lắc trên góc ảnh mà phần c̣n lại chỉ là băi bùn bên bờ nước đen? Tại sao và tại sao?

Ngày đó, anh chưa biết ǵ về nhiếp ảnh, nhưng có một chút hiểu biết về bố cục hội hoạ và tạo h́nh. Tuy vậy, anh không lợi dụng những hiểu biết ít ỏi về sơn cọ dao bay đó mà “hù dọa” em. H́nh như lúc đó anh chỉ triết lư: “Những khoảng trống đó được tác giả cố ư để làm nổi bật chủ đề nhỏ bé. Con người nhỏ bé nhưng vẫn tồn tại trước thiên nhiên và hoàn cảnh, có lẽ đó lại lợi thế của nhiếp ảnh so với hội hoạ. Em thấy không, dù con người nhỏ xíu trong không gian rộng lớn, vẫn làm cho bức ảnh có ư nghĩa và giá trị, không khác nào những khoảng trống có thể xảy ra trong cuộc t́nh chúng ḿnh, nó chỉ làm tăng thêm hạnh phúc khi chúng ḿnh lại được gần nhau, miễn là em vẫn c̣n yêu anh như bây giờ”. Anh nhớ, lúc đó em cấu vào tay anh và nói: “X́! Anh xạo hoài!”

Hơn ba mươi năm trôi qua như giấc mơ.

Sáng hôm qua em soạn lại ngăn kéo đựng đủ thứ linh tinh mà từ lâu lắm rồi anh không đụng đến. Trong giữa đám giấy tờ lộn xộn đáng cho vào sọt rác đó, có một tấm ảnh cở 4” x 6” anh chụp hồi nào không nhớ nữa; anh chỉ nhớ lúc đó máy ảnh anh c̣n tấm phim cuối cùng trong cuộn phim chụp gia đ́nh ḿnh vào lễ Chúa Giáng sinh. Để lấy phim mang đi tráng, anh cầm máy ảnh ra sân chụp con ốc sên đang ḅ trên lá huệ một cách t́nh cờ.

Tấm ảnh không chụp ai, nên chẳng để kỷ niệm, cũng không người sở hữu, anh lấy riêng ra để dùng ngăn trang sách đọc dở. Bây giờ th́ nó đang nằm trước mắt em. Cũng đôi mắt ấy, nheo lại như ngày xưa, ngày mà em ngắm các tấm ảnh trong pḥng triển lăm, giờ đây đă có con chim nhỏ nào vô t́nh bước trên đuôi mắt để lại dấu chân. Cũng mái tóc đó, ngày xưa đen dầy, em có thói quen hất ngược về sau mỗi khi muốn nói hay phản đối anh điều ǵ, nay mảnh hơn và ẩn hiện những sợi xám như làn mây nhẹ. Em cười buồn, nhưng đầy vẻ hạnh phúc, em nói: “Anh biết không, từ ngày mẹ mất, ngay cả khi thời gian ḿnh sống với nhau, có những khoảng thời gian em phải lặng lẽ độc hành như con ốc nầy. Nhưng bây giờ th́ em không c̣n ao ước ǵ hơn, em biết rồi, những khoảng không gian trống trải trong cuộc đời chỉ có thể làm tăng thêm hạnh phúc cho những người thật sự yêu nhau” như anh đă nói ngày nào.

Em nh́n anh âu yếm. Phải chăng chân hạnh phúc là đây? (Trần Xuân Hà)