Nó và tôi
Ngày 29-08-2009, giờ 14:38 Viết cho Cố Thiếu Tá
Trần Đ́nh Tự, Tiểu Đoàn Trưởng
Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân, Và tất cả
các Chiến Sĩ Vô Danh của Quân Lực Việt Nam
Cộng Ḥa.
Nó đây là Cố Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự,
Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 38 Biệt Động
Quân, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Thiếu Tá Tự là một trong những Sĩ Quan kiêu hùng
của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, đă không
chịu nhục đầu hàng mà chọn con
đường chiến đấu tới viên đạn
cuối cùng. Tới khi hết đạn, lưỡi dao
oan nghiệt của anh đă kết liễu cuộc
đời chiến đấu v́ chính nghĩa Tự Do
của Dân Tộc.
Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự đă hy sinh v́ Tổ
Quốc, tại chiến trường, vào ngày 30 tháng Tư
năm 1975.
C̣n tôi, Nguyễn Hữu An, một người bạn thân
của Tự từ thủa thiếu thời, hiện
đang ngụ tại Tiểu Bang Victoria, Úc Đại
Lợi.
Tôi quen Tự từ ngày di cư vào Nam, tháng Bẩy năm
1954.
“Tôi, Nó sinh ra nhằm chinh chiến,
Mới quen nhau mà thương mến,
Nó quê ngoài kia, từ lâu lắm chưa lần
về”.
Tôi không nhớ ngày nào của Tháng Bẩy tôi đă
đến bến bờ Tự Do, chỉ c̣n nhớ là
từ phi trường Tân Sân Nhất, gia đ́nh tôi đă
được đưa về Trường Nữ Trung
Học Gia Long. Lúc đó, đang là thời gian đi
học, nhưng các học sinh đều được
tạm nghỉ để trường học biến thành
những trung tâm tạm trú cho dân di cư. Gia
đ́nh tôi được phân phối một khoảng
trống ở gầm một cái cầu thang nào đó
của trường.
Di cư vào
Chúng tôi ở đó khoảng vài tuần th́
Phủ tổng Ủy Di Cư cho biết, chúng tôi có thể
định cự ở những vùng sau đây: Thị Nghè,
Phụ Thọ, G̣ Vấp, Hố Naị Cha Mẹ tôi
vừa chân ướt chân ráo vào Nam, làm sao mà biết chỗ
nào tốt chỗ nào xấủ Chỗ nào cũng là
bến bờ Tự Do cả mà! Rút cục, cha mẹ tôi bàn
với nhau: Đă đi quá nhiều rồi, bây giờ
chọn nơi nào gần thành phố là được
rồị Chỗ gần trường Gia Long nhất và
cũng gần Sài G̣n nhất là vùng Thị Nghè, nên gia
đ́nh chúng tôi lại khăn gói quả mướp leo lên
xe đi tới vùng được gọi là Quê Hương
Mớị Tại đây, một lần nữa, chúng tôi
lại được đưa vào tạm trú tại
Trường Tiểu Học Thạnh Mỹ Tâỵ
Trường này chỉ có một dẫy nhà trệt mà thôi,
gia đ́nh chúng tôi được chia một góc của
lớp học.
Mỗi ngày, cha mẹ chúng tôi được phân phối
thực phẩm và gạo nước để tự
nấu ăn lấỵ Mỗi tuần
cũng được phát thêm một ít tiền tiêu
vặt. Trường học có hàng rào bao chung
quanh, đám con nít chúng tôi vui vẻ chơi đùa
một cách riêng biệt trong khuôn viên của ngôi
trường Tiểu Học này, chưa hề biết ǵ
về dân bản xứ miền
Ở được vài tuần lễ th́ trung tâm tỵ
nạn đóng cửa, mỗi gia đ́nh được
cấp một số tiền nhỏ để tự t́m
nơi ăn chốn ở lấỵ Số c̣n dư th́
làm vốn sinh nhaị Những ai là công chức và giáo
chức đều được tái tuyển dụng.
Trong đám dân di cư ở Thị Nghè, lại có một
số lớn làm giáo chức, nên chính phủ chấp
thuận cho mở một trường mới, dậy ngay
tại khuôn viên của trường Tiểu Học
hiện tại Thạnh Mỹ Tây, đặt tên là
“Trường Tiểu Học Di Chuyển Thạnh Mỹ
Tây II”. Trường chính th́ học hai buổi: Buổi sáng,
từ 7 giờ sáng tới 11 giờ sáng, buổi chiều
từ 2 giờ 30 trưa tới 6 giờ 30 chiềụ
Đám học sinh “di chuyển” chen vào giữa hai buổi
học này, để học từ 11 giờ 30 sáng tới
2 giờ trưa.
Bố tôi là một trong những Giáo Viên được
tuyển dụng dậy ở trường này, nên gia
đ́nh chúng tôi đă mướn một căn nhà ở vùng
“Sở Bông” tức là nơi trồng bông cung cấp cho
Sở Thú ở sát bên (V́ Sở Bông sát cạnh sông Thị
Nghè, nên sau này, Tiểu Đoàn II “Trâu Điên” đă lập
doanh trại ở đây, lấy tên là Trại Nguyễn
Văn Nho).
Tôi và Tự cùng được xếp vào
học Lớp Nh́ (Bây giờ gọi là lớp 4, tiếng Úc
gọi là Grade 4). Cô Giáo đầu tiên
của chúng tôi là Cô Giáo Đoan. Đám học tṛ
gồm cả trai lẫn gái với mọi lứa tuổi
khác nhau: Lớn nhất là cô Én, 16 tuổi, và nhỏ
nhất là tôi, 8 tuổi (cô Én học xong lớp Nh́ th́
bỏ học để lấy chồng). Lớp có hai
dẫy bàn, đám con gái được ưu tiên ngồi
ở phía trong, đám con trai ngồi dẫy phía ngoài,
gần cửa lớp. Tôi nhỏ con nên được
ngồi bàn trên, Tự lớn con, ngồi gần cuối
lớp.
Giờ bắt đầu học và tan học
được báo hiệu bằng một hồi trống
dàị Lớp Nh́ Và Lớp Nhất được giao
nhiệm vụ đánh trồng báo hiệu.
Tôi và Tự quen nhau là nhờ nhiệm vụ đánh
trống nàỵ Mỗi lần đánh trống, phải có
hai học sinh: Một đứa đánh trống,
đứa kia làm phụ tá, vừa đứng trông
chừng đừng cho ai lại gần, lỡ bị trúng
dùi trống, vừa để thay thế nếu đứa
đánh trống chính bị đau tay không đánh trống
được, hoặc bị ốm không đi học
được. Ngày thứ hai của buổi học,
lớp Nh́ được giao nhiệm vụ đánh
trống. Cô Đoan chọn tôi và Tự.
Nhiệm vụ đánh trống vào thời gian đó,
được coi là rất quan trọng, học sinh nào . .
. có thớ lắm mới được giao nhiệm
vụ này, cả trường cùng nh́n vào cái trống và
người đánh trống. Tự cầm dùi trống
tiến tới, nh́n quanh, thấy ai cũng đang ngừng
chơi nh́n vào ḿnh, th́ . . . hơi rét, thay v́ đánh ngay
một hồi trống, th́ nó lại rụt rè, đưa
dùi trống lại cho tôi mà nói:
“Mày . . . đánh trống đi, tao . . . giữ cái
trống cho nó khỏi quay!”
Tôi c̣n nhát gan hơn nữa, vội vàng dấu hai tay ra
đằng sau, từ chối kịch liệt:
“Tao sức vóc thế này, đánh trống làm sao mà kêu to
được! Mày . . . cứ đánh đi,
tao . . . phụ cho”
V́ không thể nh́ nhằng kéo dài, làm chậm trễ buổi
học của cả trường được, nên hai
đứa đồng ư cùng hợp lực với nhau mà
đánh. Hồi trống của lớp Nh́ vang
lên không giống ai, v́ được đánh bởi hai cánh tay, một dài một ngắn. Từ đó,
chúng tôi quen nhau.
Sau buổi học, hai đứa ở lại lân la làm quen
với đám con nít
Tṛ chơi này tối thiểu cần có ba đứa, và càng
đông con nít càng vuị Con trai con gái đều chơi
chung với nhau được hết: Khởi đầu,
đứa chủ chốt sẽ vẽ một ṿng tṛn
ở giữa khoảng đất được chọn
làm sân chơị Những đứa khác sẽ chạy ra
hai đầu vẽ hai lằn mức cách xa ṿng tṛn
khoảng từ 3m tới 4m. Cả bọn sẽ tụm
lại lựa đứa đầu tiên “Bị” làm
nhiệm vụ giữ lon, bằng cách chơi ra dấu
bằng bàn tay: Dùi, Búa, Bao, Kéọ Luật chơi sẽ
như sau: Đám con nít c̣n lại sẽ chia ra làm hai phe,
đứng ở phía sau lằn mức đă vẽ, có
nhiệm vụ phải chạy đổi chỗ cho nhau
từ đầu này qua đầu kiạ Đứa
giữ lon sẽ đứng kế bên ṿng tṛn để
giữ lon và bắt bất cứ đứa nào chạy
ngang qua cái lon. Khi nó bỏ cái lon xuống đất, sẽ
bắt đầu đếm từ 1 tới 3, hai đám
con nít đứng ở hai đầu sẽ phải chạy
đổi chỗ cho nhaụ Để khỏi bị
đứa giữ lon bắt và giao lại vai tṛ giữ lon,
cả hai đám con nít sẽ phải dùng một “Cục
Tràm” làm bằng một miếng ngói bể, nhắm ngay cái
lon mà tạt cho nó văng ra khỏi ṿng tṛn. Đứa
giữ lon sẽ phải đi lượm cái lon,
đặt trở lại trong ṿng tṛn th́ mới có thể
bắt những đứa chạy ngang được.
Bắt rất khó, v́ cả chục đứa tạt tràm
vào lon, không đứa này th́ cũng có đứa khác
tạt trúng cái lon văng ra xạ Vừa mới
lượm được cái lon đặt vào vị trí
cũ th́ lại có đứa khác tạt cái lon văng ra
nữạ Đứa nào nhanh th́ vẫn có thể bắt
đứa khác chạy ngang được. Đứa nào
chân tay vụng về, bị bắt
lượm lon đổ mồ hôi hột.
Hai đứa tôi đứng quan sát hết một buổi
trưa mới thông thuộc cách thức chơị Sáng hôm
sau, hai thằng hẹn nhau đi học sớm, thực
sự là để đi ṿng ṿng kiếm cho ra mấy
miếng ngói bể, gơ gơ mài mài cho nó trở thành một
cục tràm ngon lành, thử đi thử lại cho thật
vừa tay rồi mới cất vào cặp đi tới
trường. Tan học, hai đứa đi ṿng ṿng xem
đám nào ít người chơi th́ nhào vô chơi ké:
“Tụi bay . . . cho tao chơi chung với!”
Cả bọn đang chơi chợi dừng tay
lại, nh́n chúng tôi như hai con quái vật, nhưng chưa
đứa nào có quyết định ǵ hết. Chợt có
một đứa con gái trong bọn la lớn lên:
“Đừng có chơi dzới mấy thằng Bắc
Kỳ, bay!”
Thế là cả bọn nhao nhao lên:
“Đừng có chơi dzới Bắc Kỳ”!
“Hổng cho tụi bay chơi đâu!”
Đứa con gái mạnh miệng nhất, chọc quê
tụi tôi:
“Bắc Kỳ cong, bỏ dzô long, kiu chít chít,
Bỏ dzô đích hớt kiu!”
Một đứa khác, tử tế hơn, nói nhẹ nhàng:
“Tụi bay biếc cái ǵ mà đ̣i chơỉ”
Tôi và Tự đỏ mặt quê một cục,
đứng nh́n tụi nó chơi một lúc rồi bỏ
cục tràm vào cặp, đi chỗ khác.
Hôm sau, tôi và Tự t́m ra chân lư: Trong tṛ chơi tạt lon này,
đứa nào có cái lon sẽ là chủ cuộc chơị
Dĩ nhiên rồi! Không có cái lon, lấy ǵ mà tạt? Đang vui chơi, đứa chủ lon buồn
t́nh xách lon đi chỗ khác, là cả đám nghỉ
chơi.
Thế là hai đứa hùng hục dắt nhau đi lùng lon
sữa ḅ ở những quán bán cà phê hủ tíu của
mấy chú Hoa Kiềụ Ŕnh cả buổi trời
mới lượm được một cái lon sữa ḅ
mới tinh, ông chủ Tầu bụng phệ mới
vứt ra đường. Hai thằng vội vàng chớp
lấy đem về nhà lau rửa sạch bóng, thủ vào
cặp sẵn sàng cho cuộc chơi ngày maị Hôm sau, tan
buổi học, hai đứa ôm cặp đi ṿng ṿng t́m
dịp maỵ Dịp may đây rồi: Một đám con
nít đang hăng say chơi tạt lon, bất ngờ có
đứa tạt mạnh quá, cái lon văng tuốt ra
tới giữa đường bị xe vận tải cái
dẹp lép. Cả bọn x́u như cái bong bóng bể,
mặt đứa nào đứa nấy xẹp c̣n hơn
cái lon bị cán. Tôi vội vàng mở cặp lấy cái lon
sữa ḅ đưa cao lên:
“Tụi tao có cái lon mới, cho tụi bay mượn
đó!”
Tôi không dám đặt điều kiện phải cho
tụi tôi chơi mới cho mượn lon, v́ sợ
tụi nó từ chối nữa th́ quê mặt.
Tụi nhóc Nam Kỳ đưa một mắt nh́n nhau
dọ ư, c̣n con mắt kia th́ nh́n vào cái lon
sữa ḅ mới tinh đang sáng chói dưới ánh mặt
trời một cách thèm muốn.
Cuối cùng, một đứa trong bọn hỏi tụi
tôi:
“Mà tụi bay . . . biếc chơi hông?”
Tự và tôi hăm hở gật đầụ Một
đứa có vẻ đầu sỏ, nh́n những
đứa khác như hỏi ư, rồi ngập ngừng nói:
“Dzậy th́ . . . tụi bay bỏ cái long xuống . . .
chơi chung!”
Thế là
Tự lại chơi đẹp, chịu . . . “Bị”
để cho đứa đang làm nghề giữ lon
được chạy ra tạt lon. Kể từ đó,
bọn con nít
“Cái lon đó của tao, đưa trả cho tao, lẹ
lên! Không trả, tao . . . úynh thấy . . . mẹ mầy
đó!”
Tôi nắm chặt cái lon, cung tay thủ thế:
“Tao lượm được trước, mày tới
sau mà đ̣i sao được!”
Tụi nó ỷ đông, tính nhào tới làm thịt tôị
Tự đang kiếm lon trong tiệm ăn, nghe léo xéo bên
ngoài, vội vàng chạy ra, thấy tụi nó đang vây tôi,
hắn liền sô bắn một thằng ra đằng sau,
rồi mặt hầm hầm, xuống tấn, nạt
lớn:
“Cái lon đó tụi tao lượm được
trước. Đứa nào muốn dành, tao . . . chơi
liền!”
Đám con nít thấy tụi tôi bây giờ có tới hai
đứa, đứa nào cũng gan ĺ, Tự lại
bự con nữa, nên không dám làm tới, t́m cách rút dù,
nhưng cũng cố chọc quê:
“Cái đầu thằng này niểng niểng, coi ngộ
quá ta!”
Tự đỏ mặt, v́ cái cổ nó bị tật, làm
cái đầu bị nghiêng qua một bên thật. Nó quát
lớn:
“Kệ tao!”
Tụi con nít Nam Kỳ vừa rút lui, vừa chọc quê:
“Niểng . . . Niểng”
Từ đó, tụi con nít nể mặt tụi tôị Và
cũng từ đó, Tự có cái biệt danh: “Thằng
Niểng”
Qua năm lớp Nhất, chúng tôi học với thầy
Phạm Văn Cảng. Bố Mẹ tôi cũng đă thuê
được một căn nhà khác rộng răi hơn,
ở đường Nguyễn Văn Nhàn, c̣n gia đ́nh
của Tự vẫn ở Sở Bông. Chúng tôi không mê
tạt lon nữa, mà đổi qua mê Xi Nê (Movie). Có một
lần, rạp Văn Cầm chiếu phim “Hiệp Sĩ
Zoro Bịt Mặt”. Tôi ngày nào đi học cũng lội
bộ qua rạp hát, nh́n thấy cái bảng quảng cáo to
tướng, đề hai chữ Zoro là đă mê rồi, vào
lớp kể cho Tự nghẹ Tan học, hai đứa
dắt nhau ra rạp hát, ngắm chàng hiệp sĩ Zoro
mặc quần áo đen, đội mũ đen, khăn
bịt mặt cũng mầu đen, một tay cầm
cương ngựa, một tay múa kiếm thật là oai
hùng. Nh́n h́nh đă mê rồi, nói chi tới xem phim! Hai
đứa nh́n nhau: Làm sao có tiền mà xem phim? Hai đứa
chưa từng bao giờ xem xi nê, và cũng chẳng bao
giờ có tiền mà đi xem cả! Không riêng ǵ hai
đứa chúng tôi không, cả đám con nít ở vùng
Thị Nghè cũng bu đầy rạp hát, ngước
cổ lên mà ngắm chàng Zoro.
Buổi chiều Chủ Nhật, rạp mở xuất
đầu tiên: Người lớn, con nít đứng
chật rạp, lớp chen nhau mua vé, lớp đẩy nhau
tŕnh vé vào cửạ Bán vé th́ chỉ có môt người, xoát
vé tới hai người mà cũng không làm sao kịp
với lớp người đông nghẹt rạp. Tự
xúi tôi:
“Mày nhỏ con, cúi thấp xuống, luồn qua
người xoát vé mà chui vàọ Xem được, về
nhà . . . kể cho tao nghe.”
Rồi Tự làm bộ xô đẩy những người chung quanh, t́m dịp che cho tôi chui vào rạp.
Bất ngờ, tôi gặp gia đ́nh một thằng
bạn cùng lớp. Cha mẹ nó cầm một đống
vé đang chen chúc cùng với lũ con vào cửạ Tôi
mừng quá, kề tai nó nói nhỏ:
“Cường, cho tụi tao . . . vào chung nhe!”
Cường mỉm cười thông cảm, nắm tay tôi
giới thiệu với bố mẹ nó:
“Bố ơi, thằng này là thằng An, con ông giáo,
học cùng lớp với con đó”
Thế là tụi tôi dính chùm lại với nhau, chen chúc vào
cửạ Ông bố của Cường đưa một
nắm vé ra, người xoát vé chưa kịp đếm vé
và đầu người th́ tụi tôi đă chui tuốt
vào trong rạp mất tiêu rồi!
Tôi và Tự ngồi xem đă đời
rồi mới đi về. Tới đầu ngơ, tôi
dặn Tự:
“Mày đi về cùng với tao, gập bố tao
trước. Bố tao sẽ hỏi tao đi
đâu mà lâu thế? Mày sẽ phải nói là tao
đến nhà mày chơi, nhớ nghe chưa?”
Tự khoái chí:
“Mày cũng phải nói với bố tao là tao đến
nhà mày chơi, nhớ chửa”
Từ đó, chúng tôi cứ theo cái mánh
đó mà đi xem phim cọp. Được vài lần, ông
xoát vé biết mánh của tụi tôi: Ông không tin rằng,
mỗi tuần tụi tôi lại có một người cha
khác nhau để đi theo vào xem hát. Có
lần, ông đă nắm cứng tôi lại mà hỏi
người đi kế bên tôi, có phải tôi là con của
ông ta hay không? Thế là tụi tôi bể mánh, đành
đứng ngoài nh́n h́nh
thôi.
Trưởng Hồ Ngọc
Cẩn 1965
Trường Trung-Học Hồ-Ngọc-Cẩn tọa
lạc tại đầu đường Lê-Quang-Định,
Gia-Định, là trường Nam Trung-Học Công Lập
lớn nhất tỉnh .Trường Hồ Ngọc
Cẩn được sáng lập từ tỉnh Bùi Chu,
Bắc Phần. Cụ Hồ Ngọc Cẩn là vị
Giám Mục thứ nh́ của Thiên Chúa Giáo Việt
Trong thời gian đầu, trường tá túc tại
Tiểu Chủng Viện Công Giáo tại đường Bùi
Thị Xuân, cạnh nhà thờ Huyện Sĩ. Lúc bấy
giờ trường chỉ gồm hai dẫy nhà lầu
bằng gỗ, lợp ngói xi măng đơn giản. một phần ba thành phần học sinh là
chủng sinh, chuẩn bị để trở thành linh
mục.
Đầu thập niên 60 trường đổi đến
địa điểm hiện tại là một phần
của trường Nam Tỉnh Lỵ Gia-Định. Sau
năm 1975 trường trở thành trường tiểu
học với tên mới là Nguyễn Đ́nh Chiểu.(Tài liệu của Hội Ái
Hữu Cựu Học sinh Trương Hồ Ngọc
Cẩn)
Hết lớp Nhất, chúng tôi thi vào lớp Đệ
Thất trường công. Hồi đó, trường công ít
lắm, vỏn vẹn có vài trường: Từ ngoài
Bắc di chuyển vào, cho con trai th́ có trường Hồ
Ngọc Cẩn, Trần Lục, Chu Văn An. Con gái th́ có
độc nhất một trường Trưng
Vương mà thôị Trường của phe người
Nam đă có từ lâu là Vơ Trường Toản, Petrus Kư và
Gia Long. Tự và đa số đám học sinh Bắc
Kỳ ở quanh vùng Thị Nghè, Hàng Xanh, Bà Chiểu, Tân
Định, thi và trường Hồ Ngọc Cẩn. Gia
đ́nh tôi, từ bố tôi tới anh tôi đều học
ở trường Bưởi (sau này đổi tên là Chu Văn
An), nên mặc dù tôi ở Thị Nghè mà cũng lóc cóc nộp
đơn thi ở cái trường Chu Văn An tuốt
tận Chợ Lớn.
Một
lớp học Trường Hồ Ngọc Cẩn 1966
Mặc dù học khác trường, chúng tôi vẫn gập
nhau đều đều, ngày nghỉ vẫn đôi khi
đi xem xi nê, ăn cà rem chung với
nhau.
Cuối năm Đệ Tứ (Lớp 9),
cả hai chúng tôi đều thi đậu bằng “Trung
Học Đệ Nhất Cấp”.
Tự gặp tôi, tâm sự:
“Bố tao nghỉ làm rồi, cả nhà chỉ c̣n Mẹ
tao buôn bán, không được bao nhiêu nhưng cả gia
đ́nh trông vào đó. Tao phải nghĩ cách
học cho mau để đi làm phụ mẹ.”
Một lớp
học Trường Hồ Ngọc Cẩn (Cô GS
Phượng đang dạy lớp Đệ Tứ)
Thế là nó vừa học Đệ Tam (Lớp 10) ở
Hồ Ngọc Cẩn, rồi học thêm Đệ Nhị
(Lớp 11) ở trường tư.
Cuối năm, nó cứ đi thi Tú Tài Một thử
thời vận:
Ai dè nó thi
đậu!
Tự đến gặp tôi, rủ đi xi nê
ở rạp Cao Đồng Hưng (Bà Chiểu). Nhưng
khi gặp bố tôi, là thầy học cũ của Tự
(thầy Cảng dậy chúng tôi được nửa
năm th́ mất. Bố tôi dậy thế), nó
ngập ngừng một lúc rồi chào tạm biệt
bố tôi để đi lính. Thời đó, chiến
truờng chưa khốc liệt cho lắm, việc đi
lính cũng c̣n xa vời, nên bố tôi hơi ngạc nhiên v́
quyết định của Tự, nhưng cũng chúc nó an
toàn và thành công trong cuộc đời binh nghiệp. Đi
xe bus đến rạp hát, thay v́ vào xem xi nê, chúng tôi
ngồi ngoài quán uống nước míạ Tự lại
tâm sự:
“Tao đă nói với mày rồi, nhà tao c̣n có một ḿnh
mẹ tao buôn bán nuôi cả gia đ́nh, cực quá. Tao ráng
đậu cái Tú Tài để xin đi làm. Tao đi làm
được hơn một tháng rồị Tao đă có
thể góp chút ít phụ với mẹ tao, nhưng thực
sự thấy không hợp với cuộc sống đó.
Tao không thích hợp với nghề Thư Kư quèn, nên đă
làm đơn xin đi học khóa 14 Thủ Đức
rồi, vài ngày nữa sẽ nhập trường. Đi lính sướng hơn, vừa ngang dọc
đời trai, đánh VC bảo vệ miền
Nói xong, nó móc túi rút ra một bao thuốc lá Bastos xanh, lấy
một điếu hút rồi đưa bao ra mời tôi hút.
Tôi ngạc nhiên, không biết nó học hút thuốc lá từ
lúc nàỏ Riêng tôi th́ chưa (Tự lớn hơn tôi 3
tuổi, nó 18, c̣n tôi mới có 15 tuổi thôi), nên tôi lắc
đầu từ chối.
“Ngày tôi gặp nó, nét đăm chiêu đêm nhập ngũ
Thấy thương nhau nhiều quá!”
Ra trường, Tự đến thăm tôi vào một
chiều nhạt nắng. Nó mặc bộ quân phục
mới tinh, mặt mày đen xạm, rắn chắc
nhưng vui tươi thoải máị Hai thằng lại
dắt nhau đi lang thang suốt buổi tốị Chúng
tôi không uống nước mía nữa, mà uống cà phê
đen và hút thuốc Quân Tiếp Vụ. Khi về, Tự
bắt tay tôi, nắm chặt một lúc, rồi nói:
“Đời lính nay đây mai đó, chẳng biết
trước được! Khi nào nghỉ
phép, tao sẽ t́m cách về thăm mày, nhưng chắc
cũng c̣n lâu lắm. Thôi, tao về.
Cho tao gửi lời thăm thầy.”
“Hôm chia tay, hai đứa cùng bùi ngùi,
Ngày mai Nó, Tôi trên ngưỡng cửa cuộc đời,
Dặn nhau gắng vui, dù cho vành môi xe khô mấy cũng
mỉm cười”.
Thật vậy, kể từ đó, tôi chưa gặp
lại Tự lần nàọ
Cuộc chiến cũng lần lần leo
thang, đời lính dễ ǵ có ngày nghỉ, mà nếu có,
Tự cũng c̣n thiếu ǵ chuyện để làm.
Phần tôi, tôi cũng phải lo tiếp tục học
hành, hết Tú Tài 1 lại đến Tú Tài IỊ Hết
Đại Tá Nguyễn Chánh Thi đảo chánh, lại
đến Tướng Dương Văn Minh, rồi
Tổng Thống Diệm bị giết . . . Cuộc
đời học sinh của tôi cũng theo đó mà lung tung
cả lên. Tôi quên mất cả Tự! Có
nhớ th́ cũng không biết nó ở đâu mà t́m?
Vào khoảng năm 1968 - 1969, VC tổng tấn công. Cả nước lâm chiến. Tôi
đang học cũng phải xếp bút nghiên đi quân
sự học đưởng một tháng ở Trung Tâm
Huấn Luyện Quang Trung. Học xong, được
giao cho khẩu súng Carabin, làm nhiệm vụ “Sinh Viên bảo
vệ thành phố”.
Trong một chuyến đi thăm chiến sĩ tiền
tuyến, đám sinh viên chúng tôi đi thăm một
tiểu đoàn lính vừa đi hành quân về. Đó là
Tiểu Đoàn 33 Biệt Động Quân.
“Biệt
Động Quân v́ dân quyết chiến.”
Ông Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng có một
biệt danh rất dễ sợ là . . . “Thiếu Tá Tử
Thần” và bộ chỉ huy Tiểu Đoàn đón tiếp
phái đoàn chúng tôi ở cổng trại và dắt chúng tôi
đi thăm anh em binh sĩ đang gác ở cám trạm gác,
ở tiền đồn. Khi trở về doanh trại,
chúng tôi đang nghe thuyết tŕnh th́ bất ngờ có
một giọng nói thật là quen thuộc vang lên. Tôi
ngạc nhiên, quay ngay đầu lại: Trước
mặt tôi, một sĩ quan BĐQ rất trẻ, mang lon
Đại Úy, cái đầu hơi nghẹo qua một bên.
Tôi mừng quá, hét lên:
“Tự! Phải mày đó không, Tự?”
Tự cũng mừng rỡ, đưa hai tay ra:
“An! Mày là An đó hả?”
Thế là hai đứa nắm tay nhau nói chuyện rối
rít. Tôi nh́n Tự:
“Mày . . . đi Biệt Động cơ à! Dám . . . dỡn
mặt với Tử Thần đó hả?
Oai quá nhỉ!
Đă . . . Đại Úy rồi! Lên lon mau thật! Vợ
con ǵ chưa?”
Tự chỉ Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng,
vừa cười vừa nói:
“Tử thần đứng ngay trước mặt tao nè
. . . Tao dỡn mặt với ổng hàng ngày!
Thầy ra sao rồỉ C̣n đi dậy học không?
(Thầy tức là bố của tôi, thầy giáo của
Tự)
Mày học tới đâu rồỉ Sao học hoài vậỷ
Đi lính đi, vào Biệt Động với tao!”
Đang ba điều bẩy chuyện th́ Thiếu Tá
Tiểu Đoàn Trưởng nắm vai Tự kéo ra một
góc, nói vài câu ǵ đó, Tự đanh mặt lại, quay
trở lại nói với tôi:
“Có chuyện rồi, tao lại phải dẫn quân đi
liền. Hẹn gặp mày kỳ tới,
Cho tao gởi lời hỏi thăm thầy, nhe!”
Ngày qua ngày, tôi bận rộn với việc dậy học
kiếm tiền, với thi cử, bầu cử, ứng
cử . . . ở trường Luật. C̣n Tự th́
chắc chắn là lại rày đây mai đó với
những cuộc hành quân liên miên của người lính
Biệt Động. Mỗi đứa mỗi phương
trời.
“Tử thần
trước mặt tao nè!”
Tôi học xong Đại Học năm 1971, c̣n sót lại
một ít tḥi gian hoăn dịch, cả đám sinh viên lo
chạy tứ tán kiếm đường binh: Đứa
th́ đi ứng cử vào Hội Đồng Xă, đứa
th́ xin vào chương tŕnh “Người Cầy Có Ruộng”,
Xây Dựng Nông Thôn . . . để mong được hoăn
dịch. Đứa khác th́ nộp đơn thi vào Hải
Quân, Không Quân. Tôi tŕnh diện nhập ngũ và
được xếp vào khóa 1/72 Thủ Đức.
Suốt khóa học, tôi học tàn tàn, với hy vọng là,
sẽ được biệt phái về làm ở Nha Quân
Pháp hoặc Ṭa Án Quân Sự. Nhưng hy vọng của tôi
càng ngày càng tiêu tan dần với t́nh h́nh chiến trận
càng ngày càng sôi động hơn lên. Kết quả là
đến cuối khóa, không có ban nghành nào tuyển thêm
người nữa, tất cả các Tân Sĩ Quan
đều được dành cho tiền tuyến.
Những Sinh Viên Sĩ Quan lựa chọn đơn vị
của ḿnh theo thứ tự đậu cao thấp. Ai thích
về gần nhà th́ chọn Địa Phương Quân,
Sư Đoàn . . . Ai muốn sống hùng sống mạnh th́
chọn các binh chủng nổi tiếng như Nhẩy Dù,
Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Cách, Biệt
Động Quân . . . Phần tôi, từ hồi nh́n thấy
các anh hùng Mũ Nâu đánh đuổi bọn Việt
cộng ở Hàng Xanh, tôi đă khoái binh chủng Biệt
Động Quân rồi, nay được dịp, tôi
hăng hái cầm bút viết ngay tên ḿnh vào bảng danh sách
các Tân Sĩ Quan Biệt Động Quân, chợt nhớ ra
là đă có lần Tự rủ tôi vào Binh Chủng Cọp
Đen này.
Măn khóa 50 Rừng Núi Śnh Lầy, tôi được
đưa đi thực tập với Tiểu Đoàn 42
Cọp Ba Đầu Rằn đang hành quân ở Takeo,
Campuchia, rồi Tiểu Đoàn 44 Cọp Đen hành quân
ở Kiến Phong (1). Sau khi trui luyện kỹ càng, tôi
mới được khăn gói lên vùng Pleiku gió núi mưa
mùa để bổ xung vào Tiểu Đoàn 90 Biệt
Động Quân Biên Pḥng (2).
Vừa đúng lúc Trung đội Thám Sát đang thiếu
Sĩ Quan chỉ huy (Sĩ Quan cũ vừa tử
trận), tôi đă đuợc Đại Úy Giác, Tiểu
đoàn trưởng, chỉ định làm Trung Đội
Trưởng Thám Sát.
Từ đó, tôi trở đă trở thành một
người lính “Cọp Đen” chính hiệu:
“Mũ Nâu,
mầu áo hoa rừng,
Anh đi Biệt Động lẫy lừng bốn
phương”
Đời Biệt Động của tôi, cũng
như những anh em trong binh chủng, là những chuỗi
ngày hành quân liên miên trong vùng II chiến thuật gió núi mưa
mùa, với những trận đánh thật đinh tai
nhức óc của đại bác 105, đại bác 130, Sky
Raider và A37 . . . cùng với những trận đánh xáp lá cà
im lặng tới rợn người, chỉ nghe tiếng
lưỡi lê và dao rừng vung lên mà thôi (3). Chỉ ở
vùng II này, mới có những tiểu đoàn BĐQ phải
trở về Dục Mỹ bổ xung quân số và tái
huấn luyện. Bên VC, có những Trung Đoàn, Sư
Đoàn bị tan nát, xóa sổ.
Tôi sống sót tại Quân Y Viện Ngọc Minh, với
tờ giấy phân loại II và giải ngũ vào cuối
năm 1974.
Trở về cuộc sống dân sự, tôi lang thang
khắp Sài g̣n Chợ Lớn xin việc. Các văn pḥng
Luật Sư, các ngân hàng đều đủ người
hết rồi.
Tôi nhớ lại đời sống quân ngũ, nhớ cái
mũ nâu với mầu áo hoa rừng, muốn trở
lại với Biệt Động Quân. Ngồi suy tư bên
khói thuốc và ly cà phê đen, tôi nhớ lại các
đồng đội, nhớ lại Trần Đ́nh
Tự, người bạn thủa xưa đă cùng
ngồi chung với nhau trong quán nước nàỵ Không
biết bây giờ, nó c̣n:
“Đang xông pha đèo cao núi thẳm?”
Hay . . .
“Đă về bên kia khung trời biền biệt trên
caỏ”
Cuối cùng, tôi đă được Luật Sư Đào
Văn Sáu nhận cho tập sự tại văn pḥng
của ông ở Biên Ḥa (Luật Sư Sáu hiện đang
định cự tại Tiểu Bang
Tháng Tư năm 1975, toàn bộ Miền
“Đôi dép râu dẫm nát đời trai trẻ,
Chiếc nón tai bèo che phủ kín tương lai!”
Bọn Việt cộng cai trị dân Nam bằng những
trận dịch đau mắt và ghẻ lở phát không và
chiến dịch “Đánh Tư Sản Mại Bản”
với kết quả là biết bao nhiêu người dân
phải đi vùng “Kinh Tế Mới” và hàng đoàn xe Zin và
Molotova bít bùng chở chiến lợi phẩm từ Nam ra Bắc.
Đám sinh viên nằm vùng trốn ra bưng ngày xưa,
như Nguyễn Đăng Trừng, Trịnh Đ́nh Ban,
Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Văn Nuôi . . . xuất
đầu lộ diện với những chức vụ
lạnh lùng: Giám đốc Sở Công An Thành Phố,
Chủ Tịch Hội Trí Thức Yêu Nước . . .
Đám Sĩ Quan Miền Nam tan hàng thê thảm. Người
có phương tiện th́ nhanh chân bay qua đảo
Số c̣n lại chấp nhận ra tŕnh diện bọn VC
để đi “Học Tập Cải Tạo”, nhưng
thực sự là bị đi tù, từ ba ngày, thành ba
năm, mười năm, mười bẩy năm. Có
người bị xử tử, có người chết v́
bệnh hoạn, phơi thây nơi rừng thiêng
nước độc, không thân nhân không bạn bè, không manh
chiếu đắp.
Năm 1981, tôi may mắn vượt biên thành công, t́m Tự
Do nới xứ Úc. Cũng như mọi người, tôi
nhẩy vào factory cầy túi bụi, kiếm tiền gửi
về cho gia đ́nh, cho vợ con t́m đường
vượt biên tiếp.
Đến khi đoàn tụ vợ chồng, tôi mới
trở lại trường học mà ráng sức học
hành. Tôi không theo nghề cũ mà chuyển sang học Kế
Toán.
Khi cuộc sống đă tạm ổn, tôi mới mon men ra
sinh hoạt với anh em cựu quân nhân trong tiểu bang
Victoriạ Tôi nhận thấy mọi quân binh chủng
đều có hội đoàn riêng, chỉ có Biệt
Động Quân là vắng bóng. Không phải v́ anh em Mũ Nâu
bị cọp liếm hết (5), mà v́ anh em đă quá mệt
mỏi rồi, không muốn hội hè ǵ nữa cả.
Tôi ra sức quy tụ anh em cùng chí hướng và cuối
cùng đă thành lập được
“Hội Biệt Động Quân QLVNCH, tiểu bang
Lễ ra mắt đă được cử hành long
trọng vào ngày 19 02 2001 tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cựu
Quân Nhân, Footscraỵ Mục đích là tụ hội anh em
mũ Nâu cũ, hàn huyên chuyện xưa và giúp đỡ nhau
trong cuộc sống hàng ngày tại Úc. Từ hội
Biệt Động Quân này, chúng tôi đă bắt liên lạc
được với những Biệt Động Quân khác
trên thế giới và gia nhập “Tổng Hội Biệt
Động Quân” lúc đó do anh Trần Tiễn San làm
Tổng Hội Trưởng.
Tôi nhớ lại người bạn thủa xa xưa,
nhắn tin t́m Trần Đ́nh Tự trên tập san Mũ Nâu
của Tổng Hội.
Từ bên Mỹ, anh Trần Tiễn San báo cho tôi biết:
“Đă có tin của Trần Đ́nh Tự, cấp bậc
và chức vụ cuối cùng là Thiếu Tá, Tiểu Đoàn
Trưởng Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân.
Nhưng Tự đă không c̣n nữa.
Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự đă tử trận.
Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự đă hy sinh v́ Tổ
Quốc, vào giờ thứ 25 của cuộc chiến”.
“Hai năm sau mới có thư về,
Người quen cho biết tin,
"Bạn tôi
thân mến đă liệt oanh ngă xuống, khắp
đơn vị tiếc thương”.
Tôi bàng hoàng đọc đi đọc lại tin
tử trận của Tự trong bài viết “Sự trả
thù đê hèn và dă man” của tác giả Thiên Lôi, trong tập
san Mũ Nâu số 2 và xin trích ra đây một đoạn
cho tất cả cùng đọc:
“Lúc đó là 11giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975,
tại trung tâm hành quân của Liên Đoàn 32 BĐQ, Trung Tá
Liên Đoàn Trưởng Lê Bảo Toàn nhận
được lệnh từ cấp chỉ huy Quân
Đoàn:
“Hăy ngưng bắn ngay lập tức, ở yên tại
chỗ để đợi phía bên kia đến bàn giao khu
vực.”
“Trung Tá Toàn chết sững, buông cái ống liên hợp máy
truyền tin rớt xuống đầu người lính
truyền tin đang ngồi dưới chân. Ông đổ
vật xuống chiếc ghế như cây chuối bị
đốn ngang. Hai mươi năm phục vụ quân
ngũ, 19 năm rong ruổi vào ra vùng đạn bom, năm
lần bị thương, lần nào cũng thập
tử nhất sinh, nhưng chưa bao giờ ông thấy
đau như lúc nàỵ Ông nghẹt thở, buốt trong óc
tưởng chừng như ai đang đóng ngập cái
đinh muời phân vào đầu, có lẽ cắt ruột
cũng chỉ đau đến thế. Ông lịm
đị
Người sĩ quan hành quân phải
gọi khẽ:
“Trung Tá!”
Ông gượng dậy để lấy lại bản
lănh. Sau cú “Sốc”, Trung Tá Lê Bảo Toàn đă điềm
tĩnh trở lại, ông cầm máy gọi lần
lượt từng Tiểu Đoàn Trưởng:
Tiểu Đoàn 30 Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Khoan,
Tiểu Đoàn 33 Thiếu Tá Đinh Trọng
Cường,
Tiểu Đoàn 38 Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự.
Cả ba đáp nhận. Trung Tá Toàn chậm răi, ông cố
giữ cho tiếng nói của ḿnh,với âm hưởng
đều đặn như mọi ngày:
“Các anh ra lệnh cho con cái buông súng. Tổng Thống
Dương Văn Minh đầu hàng rồi! Sẽ có
đại diện của “Phe họ” đến để
nhận bàn giaọ
Cám ơn các anh, các vị Tiểu Đoàn Trưởng,
các Sĩ Quan trong Liên Đoàn.
Tôi cũng đặc biệt cám ơn các anh em Hạ
Sĩ Quan, Binh Sĩ.
Chúng ta đă bấy lâu cộng tác, sống chết
với nhaụ
Nay, nhiệm vụ của tôi kể như đă chấm
dứt, tôi không c̣n trách nhiệm với Liên Đoàn
nữạ Thân chào tất cả anh em trong Liên Đoàn.
Lời cuối cùng của tôi trong cương vị Liên
Đoàn Trưởng là yêu cầu các anh b́nh tĩnh và chúc
tất cả may mắn!”
Lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng trong
đời Trần Đ́nh Tự đă cưỡng
lệnh cấp chỉ huỵ Sau khi nhận lệnh buông
súng và lời chào của Trung Tá Liên Đoàn Trưởng, anh
quay qua Đại Úy Xường, Tiểu Đoàn Phó:
“Anh Xường, tôi vừa nhận lệnh ḿnh phải
buông súng đầu hàng.
Đây là lần chót, tôi yêu cầu và cũng là lệnh:
Anh nói cho các Đại Đội Trưởng và thay tôi
dẫn đơn vị ra điểm tập trung.
Tôi sẽ ở lại, đánh nữa, tôi không đầu
hàng, anh hiểu cho!
Tôi không khi nào để lọt vào tay tụi nó lần
nữa (6).
“Ai ở
lại chiến đấu th́ đi theo tôi!”
Tiếp
đó, anh cho tập trung Bộ Chỉ Huy, trung đội
Thám Báo, nói vói họ đă có lệnh quy hàng, các anh em sẽ
theo lệnh của Đại Úy Tiểu Đoàn Phó, c̣n ai
muốn ở lại chiến dầu với anh đến
giờ chót th́ đứng riêng một bên.
Lần lượt số người tách
khỏi hàng được gần 40 chiến sĩ.
Trần Đ́nh Tự đưa tay chào Đại Úy
Xường và các quân nhân dưới quyền, rồi
dẫn những người quyết tử tiến vào khu
vực vười khoai ḿ để tiếp tục “Ăn
thua đủ” với địch.
Kết cục, cuộc chiến đấu cuối cùng
cũng phải chấm dứt. Tự và anh em hết
đạn, địch tràn ngập, bắt trói tất
cả những người c̣n sống (9 người)
giải về sân trường Tiểu Học gần
đó.
Tên chỉ huy của giặc Cộng tiến về phía
Tự, lớn tiếng lăng nhục QLVNCH và chỉ ngay
mặt Tự thóa mạ thậm tệ, rồi bắt anh
cởi áo quần (Lon Thiếu Tá may dính trên cổ áo).
“AI ĐẦU
HÀNG, NHƯNG TAO TH̀ KHÔNG!”
Tự đứng yên nhất định
không chịu, tên VC rít lên:
“Đến lúc này mà mày c̣n bướng hả? Lũ
uống máu! Bọn tay sai! Những thằng ác ôn! Mày có làm
theo lệnh của ông không th́ bảỏ
Nhân danh Cách Mạng, ông ra lệnh cho mày cởi áo quần
Ngụy và nằm xuống! Chúng mày đă đầu hàng,
nghe rơ chưả”
Tự trả lời:
“Ai đầu hàng, nhưng tao th́ không!
Mày nghe đây: Chúng mày mới là lũ ác ôn.
Chúng mày mới đích thực là lũ tay sai, lũ vong thân
chó má. Bọn mày chính là những tên tội phạm của
Dân Tộc Việt
Hiểu không? Một lũ đê tiện!”
Tên chỉ huy VC mắt nổi gân máu, tiến đến
sát Tự, tay giật mạnh bung hai hàng nút từ cổ
xuống đến bụng. Tên giặc Cộng rút luôn con
dao găm Tự đeo bên hông, nó đâm mạnh vào bụng
Trần Đ́nh Tự, rọc mạnh xuống phía
dướị Ruột Tự ḷi tuột ra ngoàị
Chưa hả, nó c̣n ngoáy mạnh mũi dao vào tận trong
bụng Tự.
Tự hét lên bi ai và nghẹn uất, đổ sụm
xuống oằn ḿnh giật từng cơn trong vũng
máụ
Đồng thời với hành động dă thú ấy,
tên giặc nghiêng đầu nh́n Tự rồi nói gọn:
“Đem những thằng này bắn hết đi! Toàn là
ác ôn cả đấy!”
Tám quân nhân c̣n lại bị dẫn ra phía sau trường
đễ được bắn xối xả mấy
loạt AK 47. Xác họ bị quăng xuống cái đ́a
gần đó. Bọn VC dẫn nhau đi”.
Sự đền nợ nước của Trần Đ́nh
Tự tôi kể lại hôm nay là do lời thuật lại
của Đại Úy Xường, Tiểu Đoàn Phó
Tiểu Đoàn 38 BĐQ. Anh cũng đă hy sinh trong
trại tù CS Nghệ Tĩnh, năm 1979. Tôi gặp
Xường lúc ở trại 8 Yên Bái năm 1997. Anh bị
VC bóp cổ chết trong ngục thất v́ sau nhiều
lần trốn trại anh đều bị bắt.
Xường xuất thân khóa 22A Vơ Bị QGVN. Người
thứ hai thuật lại những giờ phút sau cùng
của Cố Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự là
người lính Mũ Nâu mang máy truyền tin cho Tự -
cũng bị tàn sát chiều ngày 30 04 75 một lượt
với Tự và các anh em khác. May mắn, Đức Trọc
- tên anh ta - bị thương giả chết chờ cho VC
đi xa rồi ráng ḅ vào nhà dân, được dấu
diếm, băng bó, rồi thuê xe Lam chở về Saig̣n.
Đức đă ráng sống, ráng t́m cách vượt biên sang
Mỹ, để sau đó, kể lại cái chết đau
buồn của Thiếu Tá Tự cho mọi người
nghẹ
Tôi đọc đi đọc lại bài báo, nước
mắt nhiểu đầy trang giấỵ
Anh em sau bao năm không đuợc tin tức, lần
đầu tiên đuợc tin nhau th́ lại là tin cuối!
Ôi! Buồn làm sao!
“Hai
đứa đôi nơi, ngày đầu tiên biết tin nhau
là tin cuốị
Chát cay đầu môi chiều khu chiến mưa sụt
sùi”
Anh em sống với nhau từ nhỏ, tôi
biết rơ Tự oai hùng. Tôi biết Tự dám chiến
đấu tới cùng. Tôi đau thương, xót xa cho cái
chết quá thảm khốc của Trần Đ́nh Tự -
Một Thiếu Tá Biệt Động Quân – cầm quân
đánh trận, bị bắt ngay tại mặt trận mà
lại không được bảo vệ bởi Luật
Quốc Tế về Tù Binh, mà lại bị xỉ vả,
chửi bới thậm tệ và cuối cùng bị hành h́nh
một cách dă man như vậy hay saỏ
Trần Đ́nh Tự, một Thiếu Tá Tiểu Đoàn
Trưởng Biệt Động Quân, lại bị
giết chết một cách bi thương, bị giết
chết một cách dă man như vậy saỏ
Cả Thế Giới nghoảng mặt làm ngơ!
Những phóng viên truyền h́nh của Mỹ, của Úc,
đâu hết cả rồỉ Ông phóng viên nào chụp h́nh
Tướng Nguyễn Ngọc Loan đâu rồỉ Ông
Eđie Adams và đài truyền h́nh AP đâủ Sao không ra
quay phim, phỏng vấn, làm rùm beng lên đi!
Phóng viên chiến trường Neil Davids của Úc
đâủ Sao không viết tin này lên cho cả thế
giới đọc?
Hồi Tết Mậu Thân, một tên phiến loạn không
mặc sắc phục (dù là sắc phục của bọn
GPMN) cầm súng bắn lại các chiến sĩ VNCH. Khi
bị bắt, đương nhiên y bị coi là phiến
loạn phá rối trị an. Bắt buộc là phải
xử bắn tại chỗ theo đúng Hiến Pháp của
VNCH. Tướng Loan xử bắn nó là đúng. Tại sao
bọn nhà báo ngoại quốc lại làm rùm beng lên?
Đễ đến nỗi tới chết, ông vẫn bị
hàm oan!
Những tên nhà báo này chỉ giỏi bắt nạn VNCH mà
thôi, c̣n th́ sợ bọn VC bằng chết. Cả lũ im
thin thít, để một người lính VNCH bị hành
h́nh mà không dám có một tấm h́nh, một đoạn phim,
một lời nói bênh vực?
Công bằng ở đâủ Lẽ phải ở
đâủ
Sau khi Tướng Minh đầu hàng, đám kư giả
ngoại quốc c̣n lại ở Miền
Có lẽ tại tôi thương cho bạn quá mà nói càn hay
chăng?
Thôi th́, cuối cùng, Trần Đ́nh Tự cũng đă
chết rồị
Một cái chết oan nghiệt, nhưng đó là cái chết
oai hùng của một chiến binh không đầu hàng
giặc.
Cái chết danh dự của người lính ngay giữa
trận tiền.
Cái chết không có da ngựa bọc thây, nhưng
gương sáng của Tự sẽ c̣n lưu lại cho
đến ngàn sau:
“Muôn
lớp trai đi, ngh́n sau theo dấu chân ghi vào Thiên Lư,
Biết bao người xong nợ xương máu không
trở về.”
Trần Đ́nh Tự, Thiếu Tá Tiểu Đoàn
Trưởng Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân,
bạn thân của tôi từ thủa nhỏ, và biết bao
nhiêu chiến sĩ vô danh khác, đă chiến đấu cho
Tổ Quốc Việt Nam Cộng Ḥa tới hơi thở
cuối cùng.
“Biết bao
người xong nợ xương máu không trở về!”
Ai đó vừa quăng cái lon sữa ḅ vào thùng rác.
Tôi nhớ tới Tự, tới tṛ chơi tạt lon ngày
xưa, muốn chạy ra lượm cái lon để dành
chơị
Nhưng Tự đă chết rồi, đâu c̣n ai để
chơi tṛ chơi này nữa!
Mới đây, rạp xi nê Rivoli cũng đă chiếu
lại phim Zorọ Tôi cũng tới rạp đứng xem
h́nh quảng cáo, cứ tưởng tượng đâu
đây, Tự đang đẩy vai tôi chui vào rạp hát coi
cọp.
Nhưng Tự đă chết rồi, đâu có đẩy
vai tôi được nữa!
Tự ơi,
Mày chết ở đâủ Tao cũng không biết. Tới
khi biết tin mày chết, tao cũng không thắp
được cho mày một nén nhang.
Tao cũng ráng t́m thân nhân, bạn bè của mày, để,
nếu được, nhờ họ thắp một nén
nhang cho mày, nhưng măi đến bây giờ cũng chẳng
t́m được aị
Tao có hai thằng bạn Biệt Động nữa, là
thẳng Châu và thằng Đạm. Người quen cũng
cho biết tin về hai đứa đó. Thằng
Đạm c̣n sống, đang mở nhà hàng ở ngay Orange
County, bên Mỹ, nhưng thằng Châu th́ cũng đă
chết rồị Có điều tao may mắn đă liên
lạc với vợ con của nó, để nhờ
thắp cho nó một nén nhang.
Mới đây, có anh Sơn, cũng là người ở cùng
xóm với mày hồi xưa, cũng đang ở bên Mỹ,
có cho tao biết một ít tin tức về mày:
“Năm 2008,
Sơn có trở về lại xóm củ vào dịp TẾT ,
th́ gia đ́nh anh Tự đă không c̣n ai ở đó hết.
Hàng xóm có kể cho sơn nghe, là anh Tự đă bị
Việt cộng giết tại chỗ v́ anh không chịu
đầu hàng , gần cận chiến 30-04 đúng như
anh đă viết trong Việt Luận và take2tango. Ba má anh
Tự đă mất hết chỉ c̣n người em trai tên
Lộc và cô em gái út tên Tâm đă dọn về Thủ
Đức.
Đó là
phần về anh Tự, c̣n chị Mỹ vợ và con anh
Tự th́ sơn không biêt đă đi về đâu?”
“Đài
Tưởng Niệm Chiến Sĩ Việt Úc” ở
Đài tưởng niệm chiến tranh duy
nhất trên thế giới có Lá Cờ Vàng Ba Sọc
Đỏ tung bay suốt ngày đêm củng với 6 lá
cờ của những quốc gia đă trực tiếp
gởi quân tham chiến giúp Việt Nam Cộng Ḥa, và
chiếc trực thăng đă từng tham chiến ở
Việt Nam, bao quanh tượng đồng hai chiến
sĩ Úc, Việt trong thế tác chiến.
Anh em cựu quân nhân Úc tham chiến ở Viêt Nam cũng
với anh em lính chiến nhà ḿnh, thuộc Tiểu bang
Victoria, nơi tao ở, cũng đă gom công góp sức xây
được một Tượng Đài Chiến Sĩ
Việt Úc để tưởng nhớ những “Anh Hùng
Vị Quốc Vong Thân” trong đó có màỵ
Vào ngày khánh thành bức tượng, 30 tháng Tư năm
2005, tao và các bạn đă thắp cho mày và những
chiến sĩ vô danh khác một nén nhang.
Ấm ḷng rồi nhé!
Các bạn lính chiến của tôi ơi,
Các bạn bè ở hậu phương của tôi ơi,
Hăy đến tượng đài Chiến Sĩ Úc Việt
ở Dandenong, Victoria Australia, hoặc đến bất
cứ Tượng Đài Chiến Sĩ ở bất
cứ nơi nào trên thế giới, vào ngày 30 tháng Tư,
thắp cho Trần Đ́nh Tự và những chiến sĩ
vô danh khác của QLVNCH một nén nhang tưởng niệm,
bạn nhé!
“NGƯỜI
ĐI VÀO TỐI VẪN LƯU DANH CHO ĐỜI MĂI,
NÓ ANH HÙNG NGÀY MAI”.
Người Việt của tôi, là thế đấy!
NGUYỄN KHĂP
NƠI
Người lính già xa Quê Hương.
Ghi chú:
(1) Thực tập tại
chiến trường:
Từ Khi Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai
nhận chức Chỉ Huy Trưởng Biệt
Động Quân, ông đă cho các Tân Sĩ Quan BĐQ đi
thực tập bằng cách đi theo các Sĩ Quan thâm niên
của những Tiểu Đoàn BĐQ đang hành quân.
Mục đích là để họ học cách chỉ huy và
làm quen với chiến trường. Tôi được
đi thực tập hai tuần lễ, với TĐ 42
ở Takeo (Campuchia) và Tiểu Đoàn 44 ở Kiến Phong.
Sau đó mới đi chọn đơn vị ở Pleiku.
(2) Biệt Động Quân Biên Pḥng:
Những tiểu đoàn BĐQ biên pḥng, trước đây
có tên là “Biệt Kích Mỹ” do lực lượng
đặc biệt Mỹ tuyển và huấn luyện
tại chỗ, đóng ở các trại biên pḥng. Khi Mỹ
rút quân, các trại biên pḥng này được chuyển qua QLVNCH
và đổi tên thành Biệt Động Quân Biên Pḥng. Các
Sĩ Quan và Hạ Sĩ Quan được đưa
đi huấn luyện đặc biệt ở Thủ
Đức hoặc Đồng Đế để có thêm
kiến thức quân sự. Sau này, Liên Đoàn 6 BĐQ
mới được thành lập để bao gồm
những tiểu đoàn biên pḥng.
(3) Phân biệt bạn, thù trong đêm tối:
Lính VNCH mang dây ba chạc giữ dây lưng TAB, chỉ có hai
sợi dây nhỏ ở đằng trước ngực và
hai sợi phía sau lưng. Mọi thứ cần thiết
đều được máng vào dây TAB đeo quanh bụng:
Bao đạn, lựu đạn, biđông nước, áo
poncho . . . Lính VC đeo bao đạn thật lớn ở
ngay trước ngực, giống như áo giáp. Trung
đội Thám Sát của tôi đi đột kích ban đêm,
không có trăng sao và hỏa châu, lính ta không mang ba lô, chỉ
đeo dây ba chạc mà thôị Khi đụng địch,
lính hai bên đánh xáp lá cà, chỉ có thể phân biệt
giữa ta và địch bằng cách lần mó phía
trước: Hễ rờ thấy người
trước mặt bỏ trống ngực, đó là phe
tạ C̣n nếu có có bao đạn trước ngực th́
biết ngay đó là VC, đâm lút cán liền.
(4) Tan Hàng, Cố Gắng:
Lính VNCH, sau khi tập họp nhận lệnh, cấp
chỉ huy hô “Tan Hàng”, tất cả đồng thanh hô
“Cố Gắng” rồi mới tan hàng ra về.
(5) Cọp Liếm:
Theo truyền thuyết, Cọp ŕnh mồi, nếu không
thể bắt được con mồi, sẽ đi chung
quanh liếm bóng của con mồi, làm cho con mồi bị
say, bị thôi miên, tự động đi kiếm cọp
để bị bắt ăn thịt. BĐQ từ
hồi thành lập, mặc dù có Bộ Chỉ Huy riêng,
nhưng các Liên Đoàn và Tiểu Đoàn lại do các Quân Khu
điều động, để được tăng
phái cho mọi nơị Do đó, lính BĐQ đánh
trận mệt xỉụ Huy chương nhiều, lên
chức mau, và . . . lên bàn thờ càng mau hơn nữạ
Tỷ số thương vong của BĐQ cao hơn các
binh chủng khác rất nhiều, v́ thế, những chàng
Trai nào đăng lính Biệt Động, được
người đời khóc trước, bằng cách
gọi họ là những người . . .
Bị . . . Cọp Liếm!
(6) Thà chết, không đầu hàng:
Hồi đánh trận ở Quảng Trị, Tự mang
cấp bậc Đại Úy, Đại Đội
Trưởng. Khi đơn vị rút qua sông Mỹ Chánh,
Tự và Đại Úy Tiểu Đoàn Phó t́nh nguyện
ở lại chặn hậụ Khi VC ập tới, hai anh
c̣n ba lô súng đạn đầy ḿnh, mặc dù đă
nhẩy xuống sông, nhưng bơi chưa đủ xa,
bị VC bắt làm tù binh. Tới năm 1973 trao trả tù
binh hai bên, Tự được thả trở về. Anh
đă quá kinh nghiệm sống với VC nên thà chết
chứ không đầu hàng giặc.