Quảng Trị du kư
An Hưng
H́nh như có
một sự thôi thúc vô h́nh buộc tôi tạo một
chuyến đi. Đi bất cứ nơi nào. Miễn sao tạm
xa vài ngày xứ tôi đang sống, tạm tránh không khí
ngột ngạt từ các môi trường chung quanh.
Ban đầu
định đi về Tây nguyên theo hướng đường
7 để nh́n lại em Pleiku
má đỏ môi hồng, để bước qua vùng
Đắc Tô, Tân Cảnh nơi những bạn bè tôi đă
vĩnh viễn nằm xuống. Nhưng khi đến
bến xe, không hiểu sao vé đi Đông Hà lại nằm
gọn trong tay. Đông Hà của Quảng Trị, cầu
Hiền Lương, Cổ thành, của nhà thờ La Vang,
ḍng sông Mỹ Chánh... nơi cách đây 37 năm bạn bè tôi
đă đổ xương máu để bảo vệ vùng
đất địa đầu.
Tàu lắc lư
đưa tôi qua Bồng Sơn Tam Quan, qua sông Trà Khúc, Đà
Nẵng rồi vào Huế... nhưng ḷng rất b́nh
thản. Cho đến khi tàu len lỏi giữa những
đụn cát màu xám trắng, giữa trưa nắng và gió
Lào Quảng Trị heo hút, bỗng nhiên từ chốn sâu
thẳm gợn lên chút nhoi nhói bâng quơ. Cũng chưa
hiểu tại sao.
Đến khi tàu
đỗ ở ga Đông Hà, chân chạm lên vùng đất
một thời khói lửa, đổ nát, tang thương
tôi mới chợt hiểu sự thôi thúc ban đầu
về một chuyến đi ẩn giấu trong tiềm
thức đông cứng bấy lâu nay.
Không gọi bạn
bè, không lấy khách sạn, tôi đón xe honda ôm đi ngay ra
cầu Hiền Lương dưới cơn nắng và gió
Lào khô khốc. Tôi có thể tránh nắng và đợi gió
lặng đến chiều. Nhưng hề chi. Ngày xưa,
cũng ở chốn này, bạn bè tôi đă từng
đội lửa trên lưng, từng gửi lại
những giọt máu nhuộm đỏ cả trời
Quảng Trị th́ can cớ chi tôi lại trốn nấp
vào chút an nhàn thư thả?
20 cây số ngược
ra phía bắc, những người bạn tôi đang
nằm ở đâu trong từng tấc đất. Dốc
Miếu trước mặt và Cồn Tiên phía xa kia vẫn
là Cồn Tiên Dốc Miếu, nhưng tên tuổi anh, h́nh
bóng anh đang bay lượn trên ṿm trời cao, trong
từng kẽ lá che mát khoảng đất bên dưới,
là những cây lúa xanh màu, vườn cây ăn trái, hóa thân vào
ḍng nước lặng lờ trôi xuôi ra cửa Tùng. Tên
tuổi các anh đang và măi măi gắn chặt vào những ǵ
đang tồn tại trên phần đất này không ồn
ào, phô trương như các tượng đài nhà cầm
quyền đương thời dựng cao vút trên mơm
đất đỏ kia.
Cầu Hiền
Lương (cũ) im lặng soi bóng ḿnh bên ḍng sông xanh
lơ. Ngay bên đầu cầu bờ nam, một chiếc
cổng dựng lên theo kiểu art de triomphe của Pháp che
chắn hết thân cầu, như thể nó đang bị
giam lỏng vậy. Đứng xa và nh́n và tưởng
tượng cảnh SĐ 308 Bắc Việt vượt
sông Bến Hải, vượt cầu và lớp lớp ngă
xuống.
Lúc quay về, để
trốn cơn nắng gắt buổi xế trưa, chúng
tôi vào quán nước ven đường nằm lọt
thỏm trong vườn cây ăn trái. Quán chỉ là mấy
tấm lợp bằng fibrociment, bàn ghế lỏng
chỏng. Sâu phía trong là căn nhà mái lá. Thấy bóng ông
cụ già gầy ốm, tôi lân la hỏi chuyện. Hỏi
đủ thứ chuyện. Ông cụ vô tư kể. Ông nói
cả đời ông chưa ra khỏi mảnh đất
này, cả đời gắn bó với mấy sào ruộng
cát khô và chứng kiến gần như trọn vẹn mùa
hè đỏ lửa kinh hoàng đó. Và khi nhắc lại,
trong giọng nói ông cụ dường như chưa
hết vẻ bàng hoàng: “Từ ni ra tới chân cầu, hai
bên đường là ruộng thây người la liệt,
máu ngập tới mắt cá chân...Chi mà thảm. Dân ḿnh
tội nợ chi rứa trời!”.
Đông Hà buổi tối
cũng như bao thành phố khác, không có chi lạ. Vẫn
đèn đóm sáng choang, các cửa hiệu buôn bán, các nhà hàng,
khách sạn. Điều tôi chú ư là trước mặt
chợ Đông Hà trên khoảng đất trống lưa
thưa vài bóng cây mới trồng, tượng đài ông Lê
Duẫn nghễnh nghệu quay mặt ra con đường
chính mang tên ông nối dài từ Đông Hà tới tận
thị xă Quảng Trị, có lẽ là đại lộ dài
nhất nước (sic) như thể là biểu
tượng toàn bích của một xă hội toàn trị?.
Buổi tối, trong khách
sạn tồi tàn trên đường Nguyễn Trăi, với
mẫu bánh ḿ kẹp thịt và chai rượu Kim Long,
loại rượu đặc sản Quảng Trị,
vừa nhâm nhi vừa ngó mông ra khúc đường vắng.
Lẽ ra th́ tôi nên gọi người bạn văn đang
sống trong thành phố này báo cho anh ta biết tôi đang có
mặt, ít nhất trong lúc này chúng tôi có thể hàn huyên
đôi điều. Nhưng tôi không làm thế. Tôi muốn
giữ một khoảng yên lặng cho tôi với những
người bạn của tôi đang bay lượn đâu
đây, quanh tôi. Tôi muốn nói với họ rằng,
dưới bóng đèn chập chờn về đêm, các bạn
là những người anh hùng trong một thế kỷ
vật vă, gian nan nhất của vận kiếp quốc
gia. Các anh là những khúc ca bi hùng của một thời
đại, mà ở đó sự man rợ đă xóa sạch
niềm tin và ḷng nhân ái, đă nhấn ch́m tất cả
chúng ta vào vũng bùn nhơ nhuốc nhất suốt
chiều dài lịch sử. Thế hệ chúng ta đă
trải thân ra để chống đỡ sự man
rợ đó và chẳng may, chân lư đă ngă về phía bạo
lực, bắt buộc phải ngă về bạo lực
như sự thách đố của vận nước suy
vi. Trong bóng đêm Đông Hà giữa bốn bề chật
hẹp, tôi thầm th́ với các anh rằng trong tâm
tưởng mọi người, các anh luôn có một
chỗ đứng xứng đáng nhất, trang trọng
nhất trong ḷng dân tộc, cần ǵ phải tượng
đài xây từ máu, nước mắt và mồ hôi của
nhân dân. Ôi chữ nhân dân khốn cùng bị lợi dụng
thành xác bă.
Sáng hôm sau lại đón
xe ôm, ngược về Quảng Trị. Ăn sáng qua quít
ven đường. Nắm xôi Lào và dĩa muối mè
khiến tôi nhớ lại bức thư bạn tôi từ
Cổ Thành gửi về: “Đất nước thanh b́nh
tao sẽ đưa mày ra đây ăn
xôi Lào. Hương vị khó tả lắm...”. Bức
thư của người bạn ở Tiểu đoàn Trâu
điên gửi về mấy chục năm trước.
Giờ anh không c̣n nữa, máu anh nhuộm thắm lá quân
kỳ, anh không thể đưa tôi về như đă
viết. Miếng xôi tan trên đầu lưỡi như
thể tôi đang ngậm trọn thân thể anh vào trong tôi.
Người thanh niên chở tôi nh́n sững, hỏi: Chú
buồn chuyện mô? Tôi cười, chắc nụ
cười lúc đó đến là héo hắt. Không, tôi
đang hoài nhớ bạn tôi với lời hẹn không
thành. Chân thật hỏi, chân thật trả lời
khiến chúng tôi một già một trẻ như gần nhau
hơn. Anh ta tâm sự: một vợ hai con, nhà nằm trên
đường đi Lao Bảo cách Đông Hà 6 cây số.
Ba anh, lính SĐ 1 cũng chết trận ngay chính trên quê
hương ḿnh. Cái lư lịch đó đă biến anh
trở thành người nông dân. Ngày nông nhàn anh chạy xe ôm
kiếm thêm tiền cho hai con ăn học. Anh không muốn
các con ḿnh sẽ cũng phải đội số phận
như anh lên đầu đi dưới gió Lào và những
cơn lũ cuồng nộ dưới đất trời
Quảng Trị đau thương!
Hai chúng tôi, mỗi
người đều có nỗi ḷng riêng... khi đặt
chân lên cổng Cổ Thành.
Trong khi khách tham quan chen
nhau nghe thuyết minh về Cổ Thành về chiến
thắng của Cộng quân, tôi lách ra ngoài, ngó bức
tường thành sứt sẹo. Tôi dơi mắt t́m trên chóp
cao, chỗ Hồ Khang cắm ngọn cờ tổ
quốc? Nước mắt tôi lặng lẽ chảy
xuống: “Binh I Hồ Khang,
người chiến sĩ cắm lá cờ trên bờ
Cổ Thành Quảng Trị đă vĩnh viễn ra
đi...Anh ra đi như đùa cợt... Anh ra đi
rất ngạo nghễ như lá cờ vàng ba sọc
đỏ ngạo ghễ tung bay rên Cổ Thành Quảng
Trị...Và ngày mai, khi có ai dừng chân ghé thăm lại
nơi đây, ngoài dấu bom đạn và nguyên nét điêu
tàn đó, người ta vẫn c̣n nghe tiếng hô của
anh lồng lộng cả Cổ Thành: Việt Nam Cộng
Hoà muôn năm” (*). Nh́n bức tường thành loang
lổ, tôi tự hỏi: C̣n có bao nhiêu người trong chúng
ta thỉnh thoảng nhớ đến hàng ngàn Hồ Khang
như vậy của Dù, TQLC, BĐQ? Và tôi đă cầu
nguyện cho các anh trước cổng thành phía đông, phía
tây... và suốt dọc đường đi đến nhà
thờ La Vang.
Nhà thờ La Vang chỉ
c̣n lại tháp chuông với những vết đạn
lỗ chỗ. Đức Mẹ trên cao vẫn mở
rộng ṿng tay nhân ái. Tôi đứng dưới tháp chuông.
Lại tiếp tục cầu nguyện. Quanh tôi các tín
đồ cúi đầu cầu nguyện. Dưới bóng
nắng đổ dài, h́nh như các chiến sĩ Tiểu
Đoàn 11 Dù đang ḥ reo với lá cờ phấp phới
trên nóc Vương Cung Thánh Đường.
Lúc trở ra QLI, chúng tôi
không đi lại con đường cũ - để
đến sông Mỹ Chánh, để hồi tưởng
cảnh người dân bồng bế trốn chạy VC
về Huế trên đoạn đại lộ kinh hoàng,
để nhớ lại lời thề của tư
lệnh Lữ Đoàn 369 TQLC: “Sẽ
không có một tên Việt Cộng nào có thể vượt
qua sông Mỹ Chánh mà c̣n mạng sống trở về” – mà
đi đường tắt theo hướng đông-nam.
Làng mạc thưa thớt. Ruộng khô cằn. Vườn
nhà chỉ thấy trồng cây điều hoặc sắn
ḿ nghiêng ngă dưới ánh nắng gay gắt và từng
cơn gió Lào hanh khô. Xe chạy chừng 3 cây số bất
ngờ nh́n sang phía tay trái (theo hướng xe chạy) thấy
một khu đất rộng khoảng 3 sào Trung bộ
với những ngôi mộ đất rất ngay ngắn.
Xe chạy một đoạn khá xa, không thấy bóng
người nhưng như có linh tính khiến tôi đưa
tay bấm vào lưng anh lái xe ôm kêu quay lại chỗ g̣
đất ban năy. Nh́n quanh quất, không thấy ngôi nhà nào
gần bên. Tôi loay hoay tự hỏi những ngôi mộ
đất này là của ai? Nếu như của Việt
Cộng th́ chắc chắn họ đă quy tập lại,
xây cất tử tế chứ không để hoang phế
như thế này; c̣n nếu là của dân địa
phương hiếm khi có kiểu chôn ngay hàng thẳng
lối như thế. V́ chính ngay phía trong sâu kia rải rác
vài ngôi mộ được xây bằng gạch! Vậy
những nấm mồ này là của ai? Đang loay hoay t́m câu
trả lời th́ có một cụ già đạp xe đi
tới, có lẽ từ nhà thờ La Vang đi lễ
về? Tôi đưa tay đón ông cụ, hỏi về
những ngôi mộ đất. Sau một vài phút ngập
ngừng, ông cụ nói: đây là khu đất của
một gia đ́nh trong thôn Hải Long, xă Hải Phú,
huyện Hải Lăng. Trong chiến tranh nhiều “Ngụy
quân” chết mà không có thân nhân nhận xác nên dân địa
phương đưa về đây chôn cất cùng thân nhân
họ. Nói rồi cụ vội vă đạp xe đi
với vẻ e ngại, chỉ dặn với “nhớ ghi
cho rơ địa danh chú vừa nói”? Chiến tranh nào? Tôi
tự đặt câu hỏi khi bóng ông cụ khuất sau
hàng keo lá tràm ven đường. Chỉ có thể là mùa Hè
đỏ lửa 72, lúc TQLC, Dù và BĐQ tấn công tái
chiếm La Vang? Nhưng tại sao xác của các binh sĩ
này không được đưa về hậu cứ và báo
tử cho thân nhân họ? Những câu hỏi cứ lởn
vởn trong đầu mà không có câu trả lời. Hỏi
nhà cầm quyền địa phương là điều
không thể. Tôi lặng lẽ cúi xuống nhổ những
bông cỏ may trên ngôi mộ gần nhất gom lại thành
bó và cắm xuống đất, như thể một nén
nhang của người c̣n sống tưởng nhớ
đến các anh, những người anh hùng của dân
tộc.
Tôi lên xe, tiếp tục
đoạn đường c̣n lại để về
Huế mà ḷng trĩu nặng, không biết lấy ai cùng chia
sẻ nỗi đau khôn cùng này.
Bao nhiêu năm qua các anh
vẫn nằm đó, một cách lặng lẽ, chịu
đựng. Có ai nhớ đến các anh, như nỗi
nhớ t́nh cờ tôi đi ngang qua?
Huế, Tháng 8.2009
(*) Kiều Mỹ Duyên,
Chinh Chiến Điêu Linh, bản in lần thứ 2, Hoa
Kỳ, trg 169