Tính Chất Lăng Mạn

                Qua Thi Ca

 

 

 
"... Đôi tay nâng lấy cơi trầu,
Trước mời quư khách, sau hầu đôi bên.
Em là con gái Bắc Ninh
Kẻ tấn người tần,
Gửi lên tỉnh Bắc cho gần yến oanh..."

(Em là con gái Bắc Ninh)


H́nh ảnh duyên dáng của người con gái bắc đeo yếm thắm lụa đào cổ viền, vận áo the năm thân, bao thắt lưng xanh, váy sồi rủ h́nh lưỡi trai, chân đi dép cong, đầu chít khăn vuông mỏ quạ, đội nón ba tầm, chân bước thung thăng, nụ cười lúng liếng, ánh mắt đong đưa đưa t́nh…đă gắn liền với tôi từ thuở ấu thơ… Tuy tôi sinh trưởng trong Nam tại một nơi phồn hoa đô thị nhưng nửa ḍng máu chảy trong người tôi mang đậm nét trữ t́nh lăng mạn của quê hương quan họ. Tôi là con gái Bắc Ninh. Quê Nội mà tôi chưa một lần đặt chân về thăm là một miền quê đẹp như thần thoại, nằm nép ḿnh bên ḍng sông Cầu thơ mộng, đă khơi bao nguồn cảm hứng cho các thi sĩ từ ngàn xưa đến nay. Đất Bắc Ninh xưa gọi là đạo Bắc Giang, rồi đổi ra trấn Kinh Bắc, một miền phong phú về mặt dân ca, cũng là một vùng nổi tiếng về phong quang cẩm tú, về điền địa ph́ nhiêu, về sắc đẹp duyên dáng và t́nh tứ của những nàng thiếu nữ, về sự thông minh hay chữ và thành đạt của các danh thần, văn sĩ. Theo lời ba tôi kể th́, dân ca Quan họ Bắc Ninh không những là niềm tự hào, là vốn riêng của người dân Kinh Bắc, mà c̣n là niềm kiêu hănh, là nét đẹp văn hoá rất riêng của người dân Việt Nam.

Người ta yêu dân ca Quan họ Bắc Ninh không chỉ v́ yêu làn điệu trữ t́nh, ngọt ngào và những luyến láy thể hiện được tâm tư, t́nh cảm rất đỗi thiết tha của tâm hồn, mà c̣n yêu cả những câu chữ, lời ca bộc lộ nội tâm rất mực đằm thắm, thủy chung, dào dạt nghĩa t́nh, văn chương tao nhă, đắm say hồn người….Tôi thường thắc mắc hỏi ba tôi tại sao người ta gọi là quan họ ? Ba tôi bảo theo như lời giải thích truyền từ đời này sang đời khác th́ từ « quan họ » xuất phát từ hai từ « quan viên » và « phường họ ». Quan họ là tiếng hát “giữa hai họ nhà quan kết bạn với nhau”. Gần đây, tiến sĩ sử học Trần Đ́nh Luyện-Giám đốc Sở Văn hóa-thông tin tỉnh Bắc Ninh giải thích: “ Quan họ tức là: Nói cái nỗi mà ta yêu nhau, yêu nhau nhưng chẳng lấy được nhau…”. Có lẽ, theo ông, v́ nếu ngày xưa, những liền anh, liền chị hát quan họ mà lấy nhau, th́ không thể có được những câu hát da diết nhớ thương, t́nh tứ, sâu thẳm đến tận tim gan con người truyền lại cho hôm nay. Tôi c̣n nhớ khi tôi gặp chú thím tôi từ Bắc Ninh sang Pháp chơi, tôi đă được dịp nghe chú thím tôi hát những bài quan họ thật đa t́nh, đầy cảm xúc.

Ngồi tựa song đào
Hỏi người tri kỷ ra vào vấn vương
Gió lạnh đêm trường
Nửa chăn, nửa chiếu, nửa giường, đợi ai.


(Ngồi tựa song đào)

Theo thím tôi kể th́ cứ mỗi độ xuân về, người dân Kinh Bắc lại mở hội đón năm mới. Các liền anh, liền chị trên vùng đất Quan họ lại tụ họp cùng nhau, trao cho nhau những lời ca, câu hát sâu nặng nghĩa t́nh. Nhưng đến hẹn lại lên, từ 13 đến 15 tháng giêng hàng năm, từng đoàn khách thập phương lại đổ về đất Bắc Ninh để thưởng thức những làn điệu dân ca Quan họ và cùng nhau đắm ḿnh trong lời ca tiếng hát tràn đầy sắc xuân của vùng quê Kinh Bắc. Trong những ngày trẩy hội này, những chàng trai cô gái say mê đồng cảm với nhau qua những bài hát trao duyên đó. Có những mối t́nh Quan họ đă nảy sinh, một thứ t́nh yêu thơ mộng nhưng không kém phần đắm đuối nồng nàn…V́ biết rằng, theo truyền thống của quan họ, các liền anh liền chị phải ḷng nhau « yêu nhau nhưng không lấy được nhau », cho nên họ đă gói ghém t́nh cảm yêu thương của ḿnh gửi cho người bạn ḷng qua từng lời hát để nói lên sự nhớ nhung khắc khoải đợi chờ

Ai làm đến nỗi dở dang
Ai làm đến nỗi nhớ thương thế này.
C̣n đương cuộc rượu sánh bày
Nỡ nào Quan họ dứt dây sao đành...
(Đương vui mà về)

rồi đến khi hội tàn, giă bạn từ ly trong tiếc nuối, bịn rịn, vấn vương

Người về để nhớ cho nhau
Người ơi để áo gối đầu lấy hơi
Người về đằng ấy xa xôi
Xin người nghỉ lại với tôi bên này...

(Bỏ bạn sao đành)


để chỉ c̣n lại trong kư ức một nỗi lưu luyến thiết tha về một hương vị cay nồng, ấm ngọt, hồng rực môi, má của miếng trầu cánh phượng, một ánh nh́n lúng liếng trao nhau của trai gái trong mối t́nh quê, về những đêm bồng bềnh trên thuyền say sưa câu hát giao duyên…

... V́ ai nhớ trộm, thương thầm
Để cho con nhện giăng mùng v́ ai
Xưa câu: “Đá nát vàng phai”
Nay duyên Quan họ một hai vẫn chờ...

(Nghĩa bạn, t́nh quê)

Từ thuở ấu thơ, tôi đă yêu thích dân ca quan họ. Tôi vẫn thường rung động mỗi khi nghe ba tôi hát hay thổi sáo bài “ Người ơi, người ở đừng về”. Tuổi đời chồng chất, tôi lại thấy càng thấm thía hơn những ngôn từ thi ca đặc sắc độc đáo dùng trong lời hát quan họ. Những ngôn từ này khi th́ mộc mạc thắm đượm hồn quê khi th́ bóng bẩy trau chuốt, nhưng từng chữ đều chứa đầy cảm xúc, nghĩa t́nh và giàu về h́nh tượng, thi ảnh…Tỉ dụ như bài “ Nhện giăng mùng”. Chúng ta ai cũng biết con nhện th́ chỉ biết giăng tơ. H́nh ảnh “nhện giăng tơ” thường dùng trong thi ca để ám chỉ sự vương vấn trong t́nh yêu. C̣n “ nhện giăng mùng” th́ theo tôi ư lại phong phú hơn. “Mùng” ở đây có thể nói lên sự giăng mắc mịt mùng. “Nhện giăng mùng” khiến ta nghĩ tới sự quạnh vắng, cô đơn, thương nhớ... giăng mắc bịt bùng vây tỏa khi phải chia xa cùng người. Mong manh, nhưng suốt cả năm canh cũng chẳng vượt nổi sự vây bủa, bịt bùng ấy…

Người về để nhện giăng mùng
Năm canh luống những lạnh lùng cả năm

Tôi cũng rất hâm mộ cách đối đáp đặc sắc về nghệ thuật sáng tạo giữa “trai tài”
“gái sắc” trong dân ca quan họ. Cách đối, từ h́nh ảnh, h́nh tượng và từ ngữ đă cho ta thấy hết nét tinh hoa độc đáo của quan họ

Bài 1:
Lóng lánh: Lóng lánh là lóng lánh ơi!
Mắt người lóng lánh như sao trên trời
Tôi nhớ người lắm lắm người ơi!...

Bài 2:
Lúng liếng Lúng liếng là lúng liếng ơi!
Miệng người lúng liếng có đôi đồng tiền
Tôi với người muốn kết mhân duyên!...

Tôi vẫn hằng nguyện mong được có một lần về thăm quê nội Bắc Ninh của tôi không phải chỉ để nghe hát dân ca, mà c̣n có thể học được cách têm trầu cánh phượng, đội khăn mỏ quạ, nhất là thấm được cái T́nh của người quan họ.

Người về em vẫn trông theo
Trông nước, nước chảy, trông bèo, bèo trôi
Người về em dặn tái hồi
Yêu em xin chớ đứng ngồi với ai.




Quê Ngoại tôi th́ ruộng thẳng ph́ nhiêu, bốn bề sông nước bao bọc. Bến Tre là vựa lúa lớn của đồng bằng sông Cửu Long, nằm giữa vùng sông nước mênh mông, nơi hội tụ của 3 cù lao lớn. Bến Tre như một cái quạt x̣e ra với những nan quạt là những con sông lớn, nhỏ. Một quê hương sông nước hữu t́nh mà hết thế hệ này đến thế hệ khác gắn bó với những chiếc đ̣ ngang, đ̣ dọc, những chiếc thuyền thúng suốt mùa mưa úng, những chiếc thuyền buôn trên nhiều ngă sông xuôi ngược…


Ḍng sông cũ những chuyến đ̣ xuôi ngược
Sông chở chuyên t́nh tự của quê nhà
Có những chiều anh nh́n em đắm đuối
Thuở dại khờ ngày đó đă thật xa

(Chim sáo không về - Khiếu Long)



Tôi vẫn thường ước ao được đi trên con sông Hàm Luông rộng mênh mông, để được nh́n ngắm cái vẻ đẹp lấp lánh của những rặng dừa xanh biếc dọc hai bên bờ

Tới đây ngủ dưới bóng dừa,
Cá cơm ai nấu rất vừa miệng ăn.
Dường như từ đă ngh́n năm,
Đất đai đó mọc bạt ngàn dừa xanh.

(Bến Tre - Lư Thừa Nghiệp)

Bến Tre là vùng đất “địa linh nhân kiệt” đă sản sinh những anh tài trong văn học như Nguyễn Đ́nh Chiểu, Sương Nguyệt Ánh, Vơ Trường Toản, Trương Vĩnh Kư, Phan Thanh Giản… Nhà văn hóa Trương Vĩnh Kư - người làm báo đầu tiên ở Việt Nam, người thông thạo 27 thứ tiếng nước ngoài (12 ngôn ngữ phương Tây, 15 ngôn ngữ phương Đông). Trong khoảng thời gian 40 năm (1858 - 1898), Trương Vĩnh Kư đă để lại cho đời 118 tác phẩm, bao gồm sách nghiên cứu, sưu tầm, dịch, phiên âm trong đó có hàng chục quyển sách viết bằng Pháp văn. Trong bài “Học giả Trương Vĩnh Kư” nhà văn Việt Hải đă nhận định rằng: “ Kiến thức uyên bác, năng khiếu thiên bẩm đă tạo cho Petrus Kư là một h́nh ảnh nổi bật trong văn học sử Việt Nam. Sự nghiệp văn học của ông h́nh thành trong bối cảnh chuyển đổi từ nền nho học sang tân học với chữ Quốc ngữ theo hệ thống mẫu tự La tinh. Và ông đă thật sự đóng góp nhiều áng văn tiền phong cho sự phát triển chữ Quốc ngữ của chúng ta dùng ngày hôm nay…”

Sương Nguyệt Anh, người con gái tài ba của nhà thơ Nguyễn Đ́nh Chiểu, là nữ chủ bút ưu tú đầu tiên của Việt Nam. Từ nhỏ, ông ngoại tôi thường kể cho tôi nghe những giai thoại về bà. Tôi rất hâm mộ bà v́ bà là người thông minh tài sắc vẹn toàn, sống có đức hạnh thủy chung. Tôi vẫn c̣n nhớ bài văn tế chồng đầy nghĩa t́nh tha thiết của bà

Nhớ quân tử xưa
Tướng mạo thung dung
Tánh t́nh hậu phát
Thong thả con đường thanh đại
Bạn tần giao mấy gă đăng tâm
Tánh năng suy nghiệp huỳnh kỳ
Tài quán chúng nhiều người la bặc cả
Thương thay
Trướng hiệp quản rồi ră a giao tiếp phụ tử chia ĺa
Chẳng hay đâu thảo khấu lăng loàn
Phải dự chi mà thấu lư quyền minh
Sao đến nỗi cốt b́ tan nát
Ôi, xưa c̣n nấu thuốc linh đơn, này đă thác theo cḥm mây bạc
Giọt nước mắt chảy dài trên má, ruột gan rối bời bời
Ai chẳng than tức tưởi, phận sử quân lược sa tiền
Thiếp nhỏ giọt châu sa thảm thiết!

Năm 1906, hưởng ứng lời kêu gọi của cụ Phan Bội Châu trong phong trào Đông Du, bà đă bán cả ruộng vườn để giúp học sinh xuất dương du học. Tiếng tăm của bà ngày càng được nhiều người biết đến. Năm 1917, bà được mời làm chủ bút tờ “Nữ giới chung” - tiếng chuông của nữ giới. Đây là tờ báo đầu tiên dành riêng cho phụ nữ Việt Nam, do một nữ sĩ tài danh điều hành.

Đem chuông lên đánh Sài G̣n
Để cho nữ giới biết con cụ Đồ
(ca dao Bến Tre)

Bến Tre c̣n có kho tàng văn học dân gian với những chuyện cổ, thơ ca, câu đố …. Nơi đây, với 75 điệu lư khác nhau, là một trong những cái nôi của dân ca Nam Bộ, là vùng đất tiềm năng cho những điệu ḥ trên sông nước và ḥ trên cạn ra đời...như lư con sáo, lư mạ non, lư cái mơn, ḥ chèo thuyền, ḥ lờ , ḥ cấy lúa, ḥ đối đáp… Lư có nhiều khả năng diễn đạt, đề cập, phản ánh mọi khía cạnh của đời sống thiên nhiên và xă hội, sự vật, sự việc chung quanh, v́ vậy đề tài của lư vô cùng phong phú. Lư là tiếng nói của t́nh yêu lứa đôi hồn nhiên và mộc mạc, là ước mơ trong sáng, là khúc hát ngọt ngào thủy chung

Người về đây dừng chân trên bến
Sóng nước lăn tăn, tâm t́nh nhắn gởi người yêu
Có sang sông th́ chim sáo hát câu hẹn ḥ
Chiều tà dương măi c̣n chờ ai
Tia nắng soi rưng rưng
Đôi bờ bỗng nghe chim nhạn t́m nhau
(Lư Cái Mơn- Lê Giang)

Xứ Bến hiền ḥa đă để lại trong ḷng tao nhân mặc khách một nỗi vấn vương ngậm ngùi khi chia xa. Nhà thơ Phan Ni Tấn trong bài ca “ Phải ḷng con gái Bến Tre” cũng đă mang một tâm tư lưu luyến như thế

Đợi ánh trăng lên đầu cầu soi bước em về
Ḷng qua như con nước
lênh đênh vào trong mong nhớ
Vịnh Bến Tre tim bồi hồi ḷng muốn theo người ơi
(Phải ḷng con gái Bến Tre- Phan Ni Tấn)

Tuy chưa một lần đặt chân về nơi xứ dừa xanh thân yêu nhưng quê ngoại trong tôi đẹp như điệu lư xàng xê, ngọt ngào như lời ru của mẹ khi chiều buông, thiết tha nghĩa t́nh như sóng nước ngh́n thu xuôi về biển

Ai đem điệu lư về xuôi
Câu ḥ ở lại ngậm ngùi vấn vương
Ru hời mái đẩy nhịp thương
Qua sông chim sáo đoạn trường thở than
Ba tri sầu năo tơ đàn
Dạ lang hoài cổ bẽ bàng phận duyên
Hỏi người t́nh phụ cánh quyên
Khúc ca lẻ bạn nghẹn niềm xót xa…
(Lỡ một cung đàn- Tiểu Vũ Vi)

 


Tôi từ nhỏ theo học chương tŕnh Pháp. Là nữ sinh Couvent des Oiseaux, tôi hấp thụ nền văn hóa Tây phương rất sớm. Tôi thích cái nét lăng mạn phóng khoáng tự nhiên trong thi ca Pháp đă làm nổi bật thế giới nội tâm và t́nh cảm con người, khát khao về một tự do, tự do trong suy tưởng, tự do trong nghệ thuật, tự do trong cấu trúc làm thơ. Tôi say mê ḍng thơ Jacques Prévert, Paul Verlaine, Guillaume Apollinaire hay Alphonse de Lamartine…Tôi yêu thích thơ Prévert v́ thơ ông giản dị, v́ ông đem tiếng nói b́nh dân thường ngày vào trong thơ. Thơ của ông chứa chan đầy t́nh cảm yêu thương. Bài thơ của ông mà tôi thích nhất có lẽ là bài “Les feuilles mortes” ( “ Vàng lá mùa thu”)
…C'est une chanson qui nous ressemble.
Toi, tu m'aimais et je t'aimais
Et nous vivions tous deux ensemble,
Toi qui m'aimais, moi qui t'aimais.
Mais la vie sépare ceux qui s'aiment,
Tout doucement, sans faire de bruit
Et la mer efface sur le sable
Les pas des amants désunis…

Bản dịch của Mùi Quư Bồng :
Một bài t́nh ca
Kể chuyện đôi ta.
Nàng: Em yêu Anh!
Chàng: Anh yêu Em!
Và đôi ta sống
Cuộc t́nh đôi lứa
Nhẹ nhàng như mơ
Hạnh phúc vô bờ…

Mà, đời không lặng yên
Gây cuộc chia phôi
Tuy nhẹ nhàng thôi
Chẳng gợn chút tăm hơi...

Và cơn sóng vô t́nh
Xóa vết chân ai
Bờ cát thôi không c̣n
In dấu t́nh xưa!

Người phu quét đường
Gom lá vàng, cũng là gom
Bao nhiêu kỷ niệm,
Bao hối hận, và nuối tiếc...
Thơ của Apollinaire th́ đa dạng hơn có lẽ v́ ông đi đây đó nhiều, học rộng, có nhiều mối t́nh sâu đậm, kinh nghiệm sống của ông cũng phong phú, tác phẩm của ông viết lại nhiều. Bài thơ của ông gây cho tôi nhiều ấn tượng nhất là bài « L’adieu » và bài « Le pont de Mirabeau »
L'Adieu
J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur Terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends

Ta đă hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đă chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó...
(Lời vĩnh biệt- Bùi Giáng)
Hiện tại tôi sinh sống và định cư tại Pháp. Mỗi lần tôi về lại Paris kinh kỳ ánh sáng, thả bộ theo ḍng sông Seine, đứng trên cầu Mirabeau, nh́n ḍng nước lặng lờ trôi, tôi lại nhớ những ḍng thơ trữ t́nh của ông:

L’amour s’en va comme cette eau courante
L’amour s’en va
Comme la vie est lente
Et comme l’Espérance est violente
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont
je demeure

Passent les jours et passent les semaines
Ni temps passé
Ni les amours reviennent
Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont
je demeure

(Le Pont de Mirabeau- Guilaume Apollinaire)
T́nh đă mất như nước sông muôn thuở
Lững lờ trôi
t́nh c̣n măi lê thê
Hy vọng mong manh, đau đớn, ê chề
Rồi đêm đến,
ngày qua,
anh vẫn đó

Theo năm tháng ḍng đời trôi vàng vơ
Như thời gian
t́nh yêu chẳng quay về
Dưới nhịp cầu nước vẫn cuốn trôi đi
Rồi đêm đến
ngày qua
anh vẫn đó
(Nước chảy qua cầu- Nguyễn Tâm Hàn)
Đường Thi và thơ đường luật đến với tôi rất muộn màng. Thế giới Đường thi là một thế giới huyền thoại thần tiên thoát tục, phong phú, đa dạng, bát ngát, vô biên, vô tận, là một bức tranh thủy mạc hài ḥa, đượm hồn thơ ư nhạc... Tôi yêu thơ Lư Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy, Lương Ư Nương…Bài thơ này của Lư Bạch đă gợi trong tôi nỗi nhớ quê hương sâu sắc khi ḿnh đang mang thân viễn xứ lưu lạc nơi đất người.
Tĩnh dạ tứ
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Dịch Nghĩa
Đầu giường, ánh trăng rọi sáng,
Tưởng là sương trên mặt đất
Ngẩng đầu ngắm trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê cũ
Bản dịch của Trần Trọng San
Trước giường ngắm ánh trăng sa,
Trắng phơi mặt đất, ngỡ là ánh sương
Ngẩng đầu trông ngắm vầng trăng;
Cúi đầu lại nhớ xóm làng ngày xưa.
Tôi yêu thơ văn từ thuở nhỏ. Trong văn chương tôi h́nh như có chút kết hợp hài ḥa giữa nét lăng mạn đa t́nh của con gái quan họ Bắc Ninh và vẻ đẹp ngọt ngào thủy chung của người dân Bến Tre; giữa một lối thơ tự do phóng khoáng viết theo từ những cảm xúc chân thành như thơ Tây Phương không g̣ bó theo lề luật cấu trúc và một tâm hồn thơ sâu sắc « tức cảnh sinh t́nh » của Đường thi. Với tôi, làm thơ viết văn, trước tiên là để muốn đóng góp một phần nhỏ nhoi của ḿnh trong việc « ǵn vàng giữ ngọc » nền văn học và tiếng Việt của ḿnh nơi quê người, và cũng để cho tôi cùng chia sẻ sự đam mê nghệ thuật của ḿnh với những người đồng cảm:
"Thơ là những rung động tuyệt vời của cảm xúc, phát xuất từ niềm hạnh phúc, nỗi đớn đau, sự muộn phiền và xen lẫn đâu đó thấp thoáng những ước mơ, nỗi mong chờ và cả niềm hy vọng... Những người làm thơ là những người muốn chuyên chở những cảm xúc đó bằng sự kết hợp giữa tâm hồn và vần điệu... Để rồi những bài thơ được h́nh thành và từ đó gởi đi mong chia xẻ với những người đồng cảm…" (Khiếu Long)

Viết tại Paris, 28/04/2007
Tiểu Vũ Vi