Tính Chất Lăng Mạn
Qua Thi Ca
"... Đôi tay nâng lấy cơi trầu,
Trước mời quư khách, sau hầu đôi bên.
Em là con gái Bắc Ninh
Kẻ tấn người tần,
Gửi lên tỉnh Bắc cho gần yến oanh..."
(Em là con gái Bắc Ninh)
H́nh ảnh duyên dáng của người con gái bắc đeo
yếm thắm lụa đào cổ viền, vận áo the
năm thân, bao thắt lưng xanh, váy sồi rủ h́nh
lưỡi trai, chân đi dép cong, đầu chít khăn
vuông mỏ quạ, đội nón ba tầm, chân bước
thung thăng, nụ cười lúng liếng, ánh mắt
đong đưa đưa t́nh…đă gắn liền
với tôi từ thuở ấu thơ… Tuy tôi
sinh trưởng trong
Người ta yêu dân ca Quan họ Bắc Ninh không chỉ v́
yêu làn điệu trữ t́nh, ngọt ngào và những
luyến láy thể hiện được tâm tư, t́nh
cảm rất đỗi thiết tha của tâm hồn, mà
c̣n yêu cả những câu chữ, lời ca bộc lộ
nội tâm rất mực đằm thắm, thủy chung,
dào dạt nghĩa t́nh, văn chương tao nhă,
đắm say hồn người….Tôi thường thắc
mắc hỏi ba tôi tại sao người ta gọi là quan họ ? Ba tôi bảo theo như lời
giải thích truyền từ đời này sang đời
khác th́ từ « quan họ » xuất phát từ hai từ «
quan viên » và « phường họ ». Quan họ
là tiếng hát “giữa hai họ nhà quan kết bạn
với nhau”. Gần đây, tiến sĩ sử
học Trần Đ́nh Luyện-Giám đốc Sở
Văn hóa-thông tin tỉnh Bắc Ninh giải thích: “ Quan
họ tức là: Nói cái nỗi mà ta yêu nhau, yêu nhau nhưng
chẳng lấy được nhau…”. Có lẽ, theo ông, v́
nếu ngày xưa, những liền anh, liền chị hát
quan họ mà lấy nhau, th́ không thể có được
những câu hát da diết nhớ thương, t́nh tứ,
sâu thẳm đến tận tim gan con người
truyền lại cho hôm nay. Tôi c̣n nhớ khi tôi gặp chú
thím tôi từ Bắc Ninh sang Pháp chơi, tôi đă
được dịp nghe chú thím tôi hát những bài quan họ
thật đa t́nh, đầy cảm xúc.
Ngồi tựa song đào
Hỏi người tri kỷ ra vào vấn vương
Gió lạnh đêm trường
Nửa chăn, nửa chiếu, nửa giường,
đợi ai.
(Ngồi tựa song đào)
Theo thím tôi kể th́ cứ mỗi độ
xuân về, người dân Kinh Bắc lại mở hội
đón năm mới. Các liền anh,
liền chị trên vùng đất Quan họ lại tụ
họp cùng nhau, trao cho nhau những lời ca, câu hát sâu
nặng nghĩa t́nh. Nhưng đến hẹn
lại lên, từ 13 đến 15 tháng giêng hàng năm,
từng đoàn khách thập phương lại đổ
về đất Bắc Ninh để thưởng
thức những làn điệu dân ca Quan họ và cùng nhau
đắm ḿnh trong lời ca tiếng hát tràn đầy
sắc xuân của vùng quê Kinh Bắc. Trong những ngày
trẩy hội này, những chàng trai cô gái say mê đồng
cảm với nhau qua những bài hát trao duyên đó. Có
những mối t́nh Quan họ đă nảy sinh, một
thứ t́nh yêu thơ mộng nhưng không kém phần
đắm đuối nồng nàn…V́ biết rằng, theo
truyền thống của quan họ, các liền anh liền
chị phải ḷng nhau « yêu nhau nhưng không lấy
được nhau », cho nên họ đă gói ghém t́nh cảm
yêu thương của ḿnh gửi cho người bạn
ḷng qua từng lời hát để nói lên sự nhớ
nhung khắc khoải đợi chờ
Ai làm đến nỗi dở dang
Ai làm đến nỗi nhớ thương thế này.
C̣n đương cuộc rượu sánh bày
Nỡ nào Quan họ dứt dây sao đành...
(Đương vui mà về)
rồi đến khi hội tàn, giă bạn từ ly trong
tiếc nuối, bịn rịn, vấn vương
Người về để nhớ cho nhau
Người ơi để áo gối đầu lấy
hơi
Người về đằng ấy xa xôi
Xin người nghỉ lại với tôi bên này...
(Bỏ bạn sao đành)
để chỉ c̣n lại trong kư ức một nỗi
lưu luyến thiết tha về một hương
vị cay nồng, ấm ngọt, hồng rực môi, má
của miếng trầu cánh phượng, một ánh nh́n
lúng liếng trao nhau của trai gái trong mối t́nh quê,
về những đêm bồng bềnh trên thuyền say
sưa câu hát giao duyên…
... V́ ai nhớ trộm, thương thầm
Để cho con nhện giăng mùng v́ ai
Xưa câu: “Đá nát vàng phai”
Nay duyên Quan họ một hai vẫn chờ...
(Nghĩa bạn, t́nh quê)
Từ thuở ấu thơ, tôi đă yêu thích
dân ca quan họ. Tôi vẫn thường rung
động mỗi khi nghe ba tôi hát hay thổi sáo bài “ Người ơi, người ở
đừng về”. Tuổi đời
chồng chất, tôi lại thấy càng thấm thía hơn
những ngôn từ thi ca đặc sắc độc
đáo dùng trong lời hát quan họ. Những ngôn
từ này khi th́ mộc mạc thắm đượm
hồn quê khi th́ bóng bẩy trau chuốt, nhưng từng
chữ đều chứa đầy cảm xúc, nghĩa
t́nh và giàu về h́nh tượng, thi ảnh…Tỉ dụ
như bài “ Nhện giăng mùng”. Chúng ta
ai cũng biết con nhện th́ chỉ biết giăng
tơ. H́nh ảnh “nhện giăng tơ” thường
dùng trong thi ca để ám chỉ sự vương vấn
trong t́nh yêu. C̣n “ nhện giăng
mùng” th́ theo tôi ư lại phong phú hơn. “Mùng”
ở đây có thể nói lên sự giăng mắc mịt
mùng. “Nhện giăng mùng” khiến ta nghĩ tới
sự quạnh vắng, cô đơn, thương
nhớ... giăng mắc bịt bùng vây tỏa khi phải
chia xa cùng người. Mong manh, nhưng suốt cả
năm canh cũng chẳng vượt nổi sự vây
bủa, bịt bùng ấy…
Người về để nhện giăng mùng
Năm canh luống những lạnh lùng cả năm
Tôi cũng rất hâm mộ cách đối đáp
đặc sắc về nghệ thuật sáng tạo giữa
“trai tài”
“gái sắc” trong dân ca quan họ. Cách đối, từ h́nh
ảnh, h́nh tượng và từ ngữ đă cho ta
thấy hết nét tinh hoa độc đáo của quan
họ
Bài 1:
Lóng lánh: Lóng lánh là lóng lánh ơi!
Mắt người lóng lánh như sao trên trời
Tôi nhớ người lắm lắm người ơi!...
Bài 2:
Lúng liếng Lúng liếng là lúng liếng ơi!
Miệng người lúng liếng có đôi đồng
tiền
Tôi với người muốn kết mhân duyên!...
Tôi vẫn hằng nguyện mong được có một
lần về thăm quê nội Bắc Ninh của tôi không
phải chỉ để nghe hát dân ca, mà c̣n có thể
học được cách têm trầu cánh phượng,
đội khăn mỏ quạ, nhất là thấm
được cái T́nh của người quan họ.
Người về em vẫn trông theo
Trông nước, nước chảy, trông bèo, bèo trôi
Người về em dặn tái hồi
Yêu em xin chớ đứng ngồi với ai.
Quê Ngoại tôi th́ ruộng thẳng ph́ nhiêu,
bốn bề sông nước bao bọc. Bến Tre là
vựa lúa lớn của đồng bằng sông Cửu
Long, nằm giữa vùng sông nước mênh mông, nơi
hội tụ của 3 cù lao lớn.
Bến Tre như một cái quạt x̣e ra với những nan quạt là những con sông lớn, nhỏ.
Một quê hương sông nước hữu t́nh mà hết
thế hệ này đến thế hệ khác gắn bó
với những chiếc đ̣ ngang, đ̣ dọc, những
chiếc thuyền thúng suốt mùa mưa úng, những
chiếc thuyền buôn trên nhiều ngă sông xuôi ngược…
Ḍng sông cũ những chuyến đ̣ xuôi ngược
Sông chở chuyên t́nh tự của quê nhà
Có những chiều anh nh́n em đắm đuối
Thuở dại khờ ngày đó đă thật xa
(Chim sáo không về - Khiếu Long)
Tôi vẫn thường ước ao được đi
trên con sông Hàm Luông rộng mênh mông, để
được nh́n ngắm cái vẻ đẹp lấp lánh
của những rặng dừa xanh biếc dọc hai bên
bờ
Tới đây ngủ dưới bóng dừa,
Cá cơm ai nấu rất vừa miệng ăn.
Dường như từ đă ngh́n năm,
Đất đai đó mọc bạt ngàn dừa xanh.
(Bến Tre - Lư Thừa Nghiệp)
Bến Tre là vùng đất “địa linh nhân kiệt”
đă sản sinh những anh tài trong văn học như
Nguyễn Đ́nh Chiểu, Sương Nguyệt Ánh, Vơ
Trường Toản, Trương Vĩnh Kư, Phan Thanh
Giản… Nhà văn hóa Trương Vĩnh Kư -
người làm báo đầu tiên ở Việt
Sương Nguyệt Anh, người con gái tài ba của nhà
thơ Nguyễn Đ́nh Chiểu, là nữ chủ bút ưu
tú đầu tiên của Việt
Nhớ quân tử xưa
Tướng mạo thung dung
Tánh t́nh hậu phát
Thong thả con đường thanh đại
Bạn tần giao mấy gă đăng tâm
Tánh năng suy nghiệp huỳnh kỳ
Tài quán chúng nhiều người la bặc cả
Thương thay
Trướng hiệp quản rồi ră a giao tiếp
phụ tử chia ĺa
Chẳng hay đâu thảo khấu lăng loàn
Phải dự chi mà thấu lư quyền minh
Sao đến nỗi cốt b́ tan nát
Ôi, xưa c̣n nấu thuốc linh đơn, này đă thác
theo cḥm mây bạc
Giọt nước mắt chảy dài trên má, ruột gan
rối bời bời
Ai chẳng than tức tưởi, phận sử quân
lược sa tiền
Thiếp nhỏ giọt châu sa thảm thiết!
Năm 1906, hưởng ứng lời kêu
gọi của cụ Phan Bội Châu trong phong trào Đông Du,
bà đă bán cả ruộng vườn để giúp
học sinh xuất dương du học. Tiếng tăm của bà ngày càng được
nhiều người biết đến. Năm 1917,
bà được mời làm chủ bút tờ “Nữ
giới chung” - tiếng chuông của
nữ giới. Đây là tờ báo đầu tiên dành riêng
cho phụ nữ Việt
Đem chuông lên đánh Sài G̣n
Để cho nữ giới biết con cụ Đồ
(ca dao Bến Tre)
Bến Tre c̣n có kho tàng văn học dân gian với những
chuyện cổ, thơ ca, câu đố …. Nơi đây,
với 75 điệu lư khác nhau, là một trong những cái
nôi của dân ca Nam Bộ, là vùng đất tiềm năng
cho những điệu ḥ trên sông nước và ḥ trên
cạn ra đời...như lư con sáo, lư mạ non, lư cái
mơn, ḥ chèo thuyền, ḥ lờ , ḥ cấy lúa, ḥ
đối đáp… Lư có nhiều khả năng diễn
đạt, đề cập, phản ánh mọi khía
cạnh của đời sống thiên nhiên và xă hội,
sự vật, sự việc chung quanh,
v́ vậy đề tài của lư vô cùng phong phú. Lư là
tiếng nói của t́nh yêu lứa đôi hồn nhiên và
mộc mạc, là ước mơ trong sáng, là khúc hát
ngọt ngào thủy chung
Người về đây dừng chân trên bến
Sóng nước lăn tăn, tâm t́nh nhắn gởi
người yêu
Có sang sông th́ chim sáo hát câu hẹn ḥ
Chiều tà dương măi c̣n chờ ai
Tia nắng soi rưng rưng
Đôi bờ bỗng nghe chim nhạn t́m nhau
(Lư Cái Mơn- Lê Giang)
Xứ Bến hiền ḥa đă để lại trong ḷng
tao nhân mặc khách một nỗi vấn vương
ngậm ngùi khi chia xa. Nhà thơ Phan Ni Tấn trong bài ca “
Phải ḷng con gái Bến Tre” cũng đă mang một tâm
tư lưu luyến như thế
Đợi ánh trăng lên đầu cầu soi
bước em về
Ḷng qua như con nước
lênh đênh vào trong mong nhớ
Vịnh Bến Tre tim bồi hồi ḷng muốn theo
người ơi
(Phải ḷng con gái Bến Tre- Phan Ni Tấn)
Tuy chưa một lần đặt chân về nơi
xứ dừa xanh thân yêu nhưng quê ngoại trong tôi
đẹp như điệu lư xàng xê, ngọt ngào như
lời ru của mẹ khi chiều buông, thiết tha
nghĩa t́nh như sóng nước ngh́n thu xuôi về
biển
Ai đem điệu lư về xuôi
Câu ḥ ở lại ngậm ngùi vấn vương
Ru hời mái đẩy nhịp thương
Qua sông chim sáo đoạn trường thở than
Ba tri sầu năo tơ đàn
Dạ lang hoài cổ bẽ bàng phận duyên
Hỏi người t́nh phụ cánh quyên
Khúc ca lẻ bạn nghẹn niềm xót xa…
(Lỡ một cung đàn- Tiểu Vũ Vi)
Tôi từ nhỏ theo
học chương tŕnh Pháp. Là nữ sinh Couvent des Oiseaux,
tôi hấp thụ nền văn hóa Tây phương rất
sớm. Tôi thích cái nét lăng mạn phóng khoáng tự nhiên trong
thi ca Pháp đă làm nổi bật thế giới nội tâm
và t́nh cảm con người, khát khao về một tự
do, tự do trong suy tưởng, tự do trong nghệ
thuật, tự do trong cấu trúc làm
thơ. Tôi say mê ḍng thơ Jacques Prévert, Paul Verlaine, Guillaume
Apollinaire hay Alphonse de Lamartine…Tôi yêu thích thơ Prévert v́
thơ ông giản dị, v́ ông đem tiếng nói b́nh dân thường
ngày vào trong thơ. Thơ của ông chứa
chan đầy t́nh cảm yêu thương. Bài thơ của
ông mà tôi thích nhất có lẽ là bài “Les feuilles mortes” ( “ Vàng lá mùa thu”)
…C'est une chanson qui nous ressemble.
Toi, tu m'aimais et je t'aimais
Et nous vivions tous deux ensemble,
Toi qui m'aimais, moi qui t'aimais.
Mais la vie sépare ceux qui s'aiment,
Tout doucement, sans faire de bruit
Et la mer efface sur le sable
Les pas des amants désunis…
Bản dịch của Mùi Quư Bồng :
…Một bài t́nh ca
Kể chuyện đôi ta.
Nàng: Em yêu Anh!
Chàng: Anh yêu Em!
Và đôi ta sống
Cuộc t́nh đôi lứa
Nhẹ nhàng như mơ
Hạnh phúc vô bờ…
Mà, đời không lặng yên
Gây cuộc chia phôi
Tuy nhẹ nhàng thôi
Chẳng gợn chút tăm hơi...
Và cơn sóng vô t́nh
Xóa vết chân ai
Bờ cát thôi không c̣n
In dấu t́nh xưa!
Người phu quét đường
Gom lá vàng, cũng là gom
Bao nhiêu kỷ niệm,
Bao hối hận, và nuối tiếc...
Thơ của Apollinaire th́ đa dạng hơn có lẽ v́
ông đi đây đó nhiều, học rộng, có nhiều
mối t́nh sâu đậm, kinh nghiệm sống của ông
cũng phong phú, tác phẩm của ông viết lại
nhiều. Bài thơ của ông gây cho tôi nhiều ấn
tượng nhất là bài « L’adieu » và bài « Le pont de Mirabeau »
L'Adieu
J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur Terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends
Ta đă hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đă chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc
hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó...
(Lời vĩnh biệt- Bùi Giáng)
Hiện tại tôi sinh sống và định cư tại
Pháp. Mỗi lần tôi về lại Paris kinh kỳ ánh sáng,
thả bộ theo ḍng sông Seine, đứng trên cầu
Mirabeau, nh́n ḍng nước lặng lờ trôi, tôi lại
nhớ những ḍng thơ trữ t́nh của ông:
L’amour s’en va comme cette eau courante
L’amour s’en va
Comme la vie est lente
Et comme l’Espérance est violente
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont
je demeure
Passent les jours et passent les semaines
Ni temps passé
Ni les amours reviennent
Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont
je demeure
(Le Pont de Mirabeau- Guilaume Apollinaire)
T́nh đă mất như nước sông muôn thuở
Lững lờ trôi
t́nh c̣n măi lê thê
Hy vọng mong manh, đau đớn, ê chề
Rồi đêm đến,
ngày qua,
anh vẫn đó
Theo năm tháng ḍng đời trôi vàng vơ
Như thời gian
t́nh yêu chẳng quay về
Dưới nhịp cầu nước vẫn cuốn
trôi đi
Rồi đêm đến
ngày qua
anh vẫn đó
(Nước chảy qua cầu- Nguyễn Tâm Hàn)
Đường Thi và thơ đường luật
đến với tôi rất muộn màng. Thế giới
Đường thi là một thế giới huyền
thoại thần tiên thoát tục, phong phú, đa dạng, bát
ngát, vô biên, vô tận, là một bức tranh thủy mạc
hài ḥa, đượm hồn thơ ư nhạc... Tôi yêu
thơ Lư Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy,
Lương Ư Nương…Bài thơ này của Lư Bạch
đă gợi trong tôi nỗi nhớ quê hương sâu
sắc khi ḿnh đang mang thân viễn xứ lưu lạc
nơi đất người.
Tĩnh dạ tứ
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Dịch Nghĩa
Đầu giường, ánh trăng rọi sáng,
Tưởng là sương trên mặt đất
Ngẩng đầu ngắm trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê cũ
Bản dịch của Trần Trọng San
Trước giường ngắm ánh trăng sa,
Trắng phơi mặt đất, ngỡ là ánh
sương
Ngẩng đầu trông ngắm vầng trăng;
Cúi đầu lại nhớ xóm làng ngày xưa.
Tôi yêu thơ văn từ thuở nhỏ. Trong văn
chương tôi h́nh như có chút kết hợp hài ḥa
giữa nét lăng mạn đa t́nh của con gái quan họ
Bắc Ninh và vẻ đẹp ngọt ngào thủy chung
của người dân Bến Tre; giữa một lối
thơ tự do phóng khoáng viết theo từ những
cảm xúc chân thành như thơ Tây Phương không g̣ bó
theo lề luật cấu trúc và một tâm hồn thơ sâu
sắc « tức cảnh sinh t́nh » của Đường
thi. Với tôi, làm thơ viết văn, trước tiên là
để muốn đóng góp một phần nhỏ nhoi
của ḿnh trong việc « ǵn vàng giữ ngọc » nền
văn học và tiếng Việt của ḿnh nơi quê
người, và cũng để cho tôi cùng chia sẻ
sự đam mê nghệ thuật của ḿnh với
những người đồng cảm:
"Thơ là những rung động tuyệt vời
của cảm xúc, phát xuất từ niềm hạnh phúc,
nỗi đớn đau, sự muộn phiền và xen
lẫn đâu đó thấp thoáng những ước
mơ, nỗi mong chờ và cả niềm hy vọng... Những
người làm thơ là những người muốn chuyên
chở những cảm xúc đó bằng sự kết
hợp giữa tâm hồn và vần điệu...
Để rồi những bài thơ được h́nh
thành và từ đó gởi đi mong chia xẻ với
những người đồng cảm…" (Khiếu
Long)
Viết tại Paris, 28/04/2007
Tiểu Vũ Vi