Riêng tặng vợ tôi để
giải đáp cho câu hỏi nhiều lần:
-“Xứ nầy có biết bao
nhiêu thực phẩm ngon, sao anh lại cứ thích ăn
cơm với phộng rang hoài vậy!?”
Hồi
ở trại tù cải tạo nằm trong khu rừng Katum-Bổ
túc, tọa lạc thuộc phía tây bắc tỉnh lỵ Tây
Ninh, sát biên giới Việt-Miên, các tù nhân mắc bịnh
đói triền miên không “thuốc” chữa.
Thỉnh thoảng chúng tôi đi công tác
lao động trong rừng nhặt những trái cây hoang do
các loài chim ăn phân nửa, c̣n phân nửa rơi rớt
trên mặt đất, phủi, rửa sạch bụi
bậm và những con bọ đang đục khoét bám trên
đó để ăn, hầu có được chút hương
vị của “chất ngọt” thiếu thốn hiếm
quí. Chúng tôi t́m hái những cây nấm mối mọc trên
những g̣ mối, nhổ những cây măng le, hoặc
bẻ những lá cây c̣n non để ăn; rồi c̣n t́m
kiếm hái lá sương sâm về đổ nước
giếng vào ṿ cho nát ra, bỏ xác lá, lấy nước
để cho đông lại thành như jello có mầu lá cây
đậm, cố dồn vào cái bao tử trống rổng
của ḿnh, mong làm giảm sự cồn cào khó chịu và
những âm thanh “ai oán” cứ kêu rồ rồ từ
ruột phát ra. Có khi hái lá hà-thủ-ô về nấu
nước uống. Hương vị của lá
hà-thủ-ô có mùi thơm như thuốc bắc và lá cây khi
đun với nước sôi tiết ra nước có màu
vàng đậm như nước trà mà tôi nghe anh em tù
cải tạo truyền miệng nhau nói là uống vào tóc
sẽ giữ màu đen lâu hơn, không sớm bị
muối tiêu(?) Có nhiều tù cải tạo bị thiệt
mạng v́ đói quá, ăn trúng nhầm những cây lá, nấm
độc.
Mùa nắng, đi lao động, chúng tôi
cố gắng “tranh thủ”(gia tăng tốc độ,
gấp rút) cho nhanh công tác được giao phó
để có th́ giờ lo “cải
thiện” (cải tiến,
làm cho khá hơn) linh tinh. Có hôm tôi cùng
vài người bạn sau khi cắt tranh hay đốn cây
xong, t́m những hố bom nhỏ quanh quẩn khu vực
gần đó có nước cạn, rồi cởi bỏ quần
áo trở về với thiên nhiên, nhảy xuống ao
vừa tắm mát, vừa tát nước kiếm vài con cá
bé, tép con và những con ết nhái, bù tọt …Tép, cá, ết,
nhái có được rồi, lén cất dấu mang về
trại, chờ cho không có bóng dáng mấy chàng Quản giáo
trại tù đi qua lại đưa mắt cú vọ ḍm ngó
mới nhanh chân lẻn vào nhà bếp moi những thỏi
than tàn chu miệng thổi cho than ửng đỏ lại
để nướng lẹ những con tép riêu, cá con
rồi dồn vào miệng cho nó đă cơn đói thèm. Đâu
ai có được cái bậc lửa, cả trại
chỉ có ngọn đèn dầu leo lét treo ở bếp,
tối đến các trại viên muốn thấp đèn th́
đi xuống nhà bếp mồi lửa. Cán bộ trại
tù kiểm soát hành trang mang theo của tù nhân, cất giữ
những vật dụng mà họ cho là nguy hiểm và phương
tiện trốn trại như bậc lửa, đồng
hồ đeo tay, kính cận thị, những vật
dụng bằng kim khí v.v…Việc “cải thiện” ăn
uống riêng tư, cán bộ Quản giáo trại mà phát giác
được th́ lôi thôi lắm! Bị những h́nh
phạt, rồi mỗi đêm bị “ngồi đồng” (ngồi
nghe kiểm thảo) để nghe “lên lớp”(dạy
bảo, xây dựng, kiểm điểm). Bạn bè cùng
đội cũng bị vạ lây phải ngồi theo; ban
ngày đi lao động mệt mỏi, tối lại c̣n
phải ngồ́ đồng nữa.., nội việc anh em
bực bội chửi đổng ḿnh nghe cũng
điếc con ráy!
“Chế độ”(tiêu chuẩn) ăn uống
của đám tù cải tạo được cấp phát
cho mỗi buổi ăn trưa (lunch)
và chiều (dinner) cho một
toán 5 người là một cái thau cơm nhỏ, lớn
hơn tô thường một chút, được phân phát
từ chảo nấu cơm cho tập thể do các tù
cải tạo luân phiên phụ trách, công tác nấu bếp
nầy gọi là “anh nuôi”. Tù cải tạo nào
được đến phiên làm anh nuôi th́ mừng
thắp thỏm, bè bạn xa gần cũng vui mừng lây
v́ khi cạo đáy chảo cơm, chia sẻ cho nhau
hưởng được một chút ít cơm cháy
để nhai cho sướng cái miệng. Thau cơm
được chia đều ra cho 5 người ăn.
Mỗi một hạt cơm là một hạt ngọc,
hiếm và quí giá vô cùng. Anh em cải tạo trên tinh thần “ăn đồng chia đủ”
đă lợm nhặt những mảnh bom từ thời
chiến lúc đi lao động trong rừng g̣ mài thành
những chiếc muỗng đủ cở lớn nhỏ
để chia cơm cho đúng lượng. Miếng ăn
hiếm hoi lúc con người đói khát nó trở thành
miếng đại quan trọng. “Tồi tàn” là vậy! Phú
quí sinh lễ nghĩa, c̣n bần cùng th́ sinh ra bần
tiện; đoạn trường ai có qua cầu mới
hay, lúc túng thiếu, đa phần sinh vật con
người ta sống theo cái bản năng sinh tồn
tự nhiên, như câu nói của cụ Nguyển công
Trứ:
“Ví thử đường
đời bằng phẳng cả,
Anh hùng hào
kiệt có ai hơn”.
Những năm đầu sau khi cộng
sản vừa tấn chiếm miền Nam Việt-nam, tù
cải tạo được phát cho ăn gạo lức
của Trung-cộng viện trợ không biết từ
hồi nào, mà mỗi lần đổ nước vào vo
gạo, hạt gạo nổi lềnh bền trên mặt
nước cùng với vô số con bọ gạo đang
đục khoét trong gạo, có khi đổ gạo từ
bao bố tời ra chảo nấu đă có chừng phân
nửa bao gạo lên mốc, phất lên mùi hôi và hạt
gạo trắng đă ngả thành màu vàng xanh. Dạo đó
đa số các tù cải tạo bị bịnh phù thủng
v́ thiếu vitamine B1. Tôi cũng như các bạn
đồng cảnh ngộ có những bửa sáng ngủ
thức dậy, cảm thấy tứ chi, thân thể
của ḿnh nó nặng tŕnh trịt, không ngồi dậy
nổi, đưa ngón tay ấn vào các chổ bắp
thịt tay chân đến chổ nào th́ thấy dấu
trũng trên da hủng xuống tới đó.
Thường thường th́ đám tù
cải tạo chúng tôi ăn cơm với “thịt cọp” (muối cục, cắn hột
muối bể ra âm thanh nghe cộp cộp, mỗi bửa ăn mỗi
cải tạo viên được phân chia cho 4- 5 cục
muối hột), hoặc là rau
muống luộc lênh láng nước. Lâu lâu th́ mỗi đứa có được
miếng khô cá biển to bằng ngón tay.
Chúng tôi được lệnh
của Ban chỉ huy trại tù lên liếp trồng thêm hoa
màu phụ, trồng khoai ḿ, rau muống để “cải
thiện” thêm cho bửa ăn. Mỗi ngày toán anh nuôi chỉ
được thu hoạch đúng số lượng rau do
trại đề ra chớ không được thêm. Khoai ḿ
(sắn) dễ trồng,
chỉ cần đào cái đường rảnh sâu
chừng 6 in rồi bỏ hom (thân cây chặc thành từng khúc
nhỏ, chiều dài độ 8-12”) xuống, lấp
đất lại xong cứ tưới nước ngày 2
bận sáng chiều, khoảng 1 tuần lễ là cây hom
bắt rể đâm cḥi nẩy lá non; nhưng khoai ḿ là món ăn
liệt vào hàng hiếm quí, chỉ được ăn vào
những dịp lễ lớn như mừng ngày sinh
nhật Hồ chí Minh, ngày Tết, ăn độn thêm
với cơm và cũng chỉ được ăn
với một số lượng mà Ban chỉ huy trại
tù ấn định. Cứ mỗi lần thu hoạch khoai
ḿ th́ bốc vỏ ra bỏ, củ khoai được
sắc lát phơi khô và Ban chỉ huy trại cất vào nhà
kho, chỉ xuất kho khi được lệnh và số
lượng giới hạn ấn định. Dỉ nhiên
là không đủ dose đế trấn áp cái âm thanh kêu
rồ rồ trong bụng của đám tù cải tạo!
Kho thực phẩm ở cách xa
trại khoảng 7-8 cây số đường rừng,
cứ mỗi lần đi lảnh thực phẩm, ban
Quản giáo trại cắt cử từ 6 đến 10
cặp, mỗi cặp mang theo cây đ̣n để khiêng và
luân phiên thay nhau gồng gánh thực phẩm về trại
do hai người vệ binh cộng sản mặt lạnh
như tiền dẫn đường, một đi
trước, một đi sau, súng AK-47 lúc nào đạn
cũng lên ṇng, sẳn sàng…nhả đạn nếu
cần. Đường đi gập ghềnh, có lúc đi
băng xuyên qua những trảng tranh rộng, có lúc chui vào
rừng dầy mịt cây lá, có lúc vượt qua những
con suối nhỏ có nước chảy róc rách hay lội
qua những chổ trũng của hố bom lâu ngày có
nước động cả đám tù phải xúm nhau è
ạch phụ nâng những cái bao bố đựng
thực phẩm lên cao khỏi mặt nước.
Ban chỉ huy trại tù
nắm chặt cái bao tử của tù nhân. Không cho ăn
nhiều, mà cũng không bỏ đói.Tù nhân không chết, mà
dở sống dở chết trong t́nh trạng kiệt
lực, ví như ngọn đèn dầu chỉ c̣n
đủ số lượng dầu để cái tim
đèn le lói đóm lửa nhỏ, v́ có như thế ban quản lư trại tù mới an tâm, không lo
sợ đám tù có đủ khả năng nổi loạn
chống lại, hoặc có đủ sức để
trốn trại, và cũng vừa đọa đày cho
chết lần ṃn. Ai may mắn được c̣n sống
trở về với gia đ́nh th́ cũng mang những
chứng bệnh trầm kha hết thuốc chữa và
..chỉ c̣n chờ ngày để đi về thế
giới khác cho rảnh nợ!
Ghẻ lở bắt
đầu xảy ra cho một số tù cải tạo. Đă
có lác đác một vài tù cải tạo “bất phục
tùng” trốn trại hoặc bỏ đi về thế
giới bên kia. Đám tù cải tạo bắt đầu hoang
mang cho ngày trở về v́ những câu nói mập mờ úp
mở của cộng sản.
Đám tù cứ khoảng 6 tháng
lại bị dời đổi từ nơi nầy sang
nơi khác và cứ tiếp tục công việc vào rừng
chặt cây dựng nhà, đào giếng, cắt tranh, khai
hoang lên líp trồng hoa màu, rồi lại dời đi
nơi khác, lại tiếp tục làm cái công việc
tương tự.
Hơn một năm, sau khi tôi
được cộng sản ưu ái cho đi du lịch
ṿng ṿng khu rừng Katum-Bổ túc để giới
thiệu phong cảnh hữu t́nh của non sông gấm vóc,
họ “biên chế” (dời, đổi đi nơi
khác) đám tù chúng tôi đến căn cứ Trảng
Lớn, một căn cứ cũ của ta ở ngoại
ô thị xă Tây Ninh và dời những người đang
ở đây đi nơi khác.
Tại căn cứ Trảng
Lớn, đám tù cải tạo chúng tôi chen chúc ở trong
những trại gia binh có sẵn thời trước, vách
xây bằng gạch block xi măng, mái lợp tôn. Hôm nào không
có đi công tác lao động, quá 9 giờ sáng, khi mặt
trời vừa nhô lên cao mang đến hơi nóng hừng
hực, mọi người phải ra ngoài ngồi, nếu
như không muốn tắm hơi! Chúng tôi chỉ
được đi lại trong phạm vi có hàng rào
kẽm gai và lô cốt ngày đêm có bộ đội
cộng sản canh gác.
Cứ mỗi hai tuần là
cải tạo viên phải làm bản tự kiểm cái quá
tŕnh làm “lính đánh thuê cho đế quốc Mỹ”(chữ dùng của cộng sản kết cho QLVNCH), đă
tham dự những cuộc hành quân nào, đă bắn
giết bao nhiêu cách mạng và đồng bào, đă dự
những khóa học đào tạo chuyên môn nào, biết
nơi nào c̣n cất dấu những kho tàng của chế
độ Sàig̣n và đồng thời khai lư lịch 3
đời cùng khuynh hướng chính trị của gia
đ́nh v.v.. . Khai đi khai lại nhiều lần như
vậy, anh nào khai không giống với những bản
tự khai trước th́ được gặp riêng cán
bộ quản giáo để “làm
việc”(thẩm vấn,
điều tra, hỏi cung). Ai không am tường khai báo
th́ được cán bộ Quản Giáo mớm cho những
lời khai “ác ôn côn đồ”. Lỡ dạy dột quên
lời dặn của tổng thống Nguyển văn
Thiệu: “Đừng nghe những
ǵ cộng sản nói, mà hăy nh́n kỷ những ǵ cộng
sản làm” th́ bỏ mạng. Cán bộ cộng sản
đưa bản tự khai của từng tù cải
tạo, bên dưới có chữ kư tên hẳn ḥi ..th́
hết đường chạy tội!
Cơn đói của anh em tù
cải tạo sau hơn hai năm ăn cơm hạn
chế, độn rau muống luộc với “thịt
cọp” đă có chiều hướng phát triển tột
độ, anh em chúng tôi người nào cũng hốc hác
gầy ốm, bệnh hoạn v́ thiếu dinh dưỡng
và thuốc men. Đói thèm quá cho nên tâm tư tù nhân lúc nào cũng
lảng vảng mơ tưởng đến thức
ăn. Những khi ngồi nghỉ
giải lao lúc
lao động, hoặc là buổi tối trước khi
ngủ, từng nhóm hay ngồi với nhau “ăn hàm
thụ” những món ăn ở ngoài đời lúc
trước bằng cách luân phiên kể cho nhau nghe hết
món ăn nầy đến món ăn khác và mang theo các món
ăn vào giấc ngủ của ḿnh để mộng
mị, để ăn cho đă thèm.
Ở đây, hằng ngày chúng tôi
được phân chia cho đi làm công tác ṿng quanh khu
vực trại như khai hoang, dọn dẹp rác rến,
đào giếng lấy nước, lên líp trồng rau
muống tại những khu vực sỏi đá. Phải
bỏ ra rất nhiều công sức để gạn
lọc lấy đất thịt có lẫn với cát
trước khi lên lên liếp trồng rau và mỗi ngày gánh
“chè
đậu xanh” (gánh phân người) từ những hố
tiêu, hố tiểu trong phạm vi để tưới
tắm cho đám rau, để được đạt
chỉ tiêu thu hoạch của mỗi cá nhân do ban chỉ huy
trại đề ra, nếu không sẽ bị khiển
phạt v́ cá nhân c̣n ù ĺ, không chịu cải tạo, c̣n “nín
thở qua sông”. Không tiến bộ
trong lao động cải tạo, th́ con đường
trở về nhà sẽ c̣n thăm thẳm chiều trôi…
Phân người và nước
tiểu ở trại cải tạo quí như vàng và không có
đủ để cung ứng cho nhu cầu cần có.
Chung quanh các nhà ở tập thể đều có các thùng,
chậu chứa nước tiểu, không bỏ một
giọt nào. Các cầu tiêu trong trại được
đám tù góp nhặt cây ván vụn kê cho cái chổ ngồi
cao lên để bên dưới đủ chổ
đặt để thùng phuy chứa “vàng” có khoét cái lỗ
ngang hông khoảng giữa cái phuy để tiện việc
“lấy vàng”. V́ không có đủ “vàng” cung ứng, các
cải tạo viên nào cần chất hiếm quí để
châm bón luống rau của ḿnh phải chầu chực
ngồi canh me.. Các “máy” chế tạo ra “vàng” bên trên vừa
sản xuất được thỏi vàng nào th́ các
người “t́m vàng” hốt lẹ lúc “vàng” hăy c̣n nóng
hổi, vừa thổi vừa dùng, không lanh tay lẹ chân
th́ người khác chụp mất “vàng”. Tôi có một
bữa chột bụng đi t́m chổ, ra đến
nơi thấy có người “t́m vàng” đang chờ
sẵn. Bắt được tôi, mặt hắn rạng
rỡ lên, tươi cười và c̣n “bốc lăn xe”(vấn thuốc rê) cho tôi
một điếu để tôi được khuây
khỏa thoải mái, vừa khói lửa ph́ pḥ ngắm mây
trời, để vừa sản xuất “vàng” cho có số
lượng tốt.
Có một buổi sáng tại
Trảng Lớn, trước khi ra đồng làm công tác,
chúng tôi được chia nhau mỗi đứa khoảng
4 muỗng cơm trắng ăn với 4 hạt đậu
phộng rang muối. Ngon ơi là ngon! Ngon chưa từng có
trong đời tôi. Đứng chờ được
đến phiên của ḿnh nhận lảnh phần cơm
và 4 hạt đậu phộng là cái âm thanh kêu rồ rồ
trong ruột gan làm cho tôi rung ḿnh và nước bọt
ứa trào. Tôi phải cứ nuốt vào, nuốt vào.. cho
đến khi được cơm và những hạt
đậu phộng thơm phức, tôi cứ để
trước mặt ḿnh và kê mũi ngửi cho đă rồi
mới từ từ tôi dùng cái muỗng nhỏ xíu do tôi làm
lấy bằng mảnh bom lượm được múc
từng chút cơm, từng chút cơm bỏ vào miệng.
Tôi cắn lần nửa hạt đậu phộng quí giá,
không dám bỏ nguyên hột vào miệng, v́ tôi sợ hết!
Tôi tự đánh lừa ḿnh để được
ăn nhiều lần. Hương thơm, vị béo
ngầy ngậy tiết ra trong miệng, khiến tôi cứ
nhai hoài, nhai hoài mà không nuốt
để tận hưởng từ từ hương
vị lâu ngày mới có được. Đám bạn tù có
người th́ ngốn hết vào mồm một lần cho
đả “thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt”, có
người th́ chỉ ăn có một hạt, c̣n lại 3
hạt cất bỏ túi, để dành lại trong ngày
thỉnh thoảng mang ra nhâm nhi…
Sau bữa được ăn
cơm với đậu phộng rang, mấy ngày qua đi
mà tôi và các bạn tù vẫn c̣n mơ màng tương tư
vương vấn…Cứ mỗi lần tôi nhớ
đến hạt đậu phộng no tṛn vàng hực là
trong ḷng ḿnh lại sao xuyến bồi hồi, thèm thuồng
khó tả. Tôi nghỉ lúc đó mà tôi được có
cả thau đậu phộng rang muối và có
được bao nhiêu cơm chắc tôi cũng ph́nh
bụng nuốt hết cho nó đả cơn đói thèm,
không cần nghỉ ngợi đến hậu quả tôi
bị bội thực lăn đùn ra..chết v́ no!
Ở Trảng Lớn
được vài tháng, chính quyền cộng sản cho phép
thân nhân tù cải tạo được gởi quà v́ t́nh
trạng thiếu thốn thực phẩm và thuốc men
trầm trọng của đám tù. Chúng tôi những kẻ
sắp chết khát ở sa mạc được cho
nước uống, được vị cứu tinh. Gói
quà cho gởi vào được giới hạn là 3kg. Món
đầu tiên tôi ghi trên mảnh giấy nhỏ để
gởi về cho gia đ́nh là 1kg đậu phộng,
kế đó tôi phân vân không biết yêu cầu ǵ gởi
đến gia đ́nh của ḿnh cho 2kg c̣n lại, món nào tôi
cũng thèm muốn. Sau mấy đêm cân nhắc, thêm
bớt để có được những thứ cần
thiết hơn, nhất là thuốc men để trị
bịnh, kim chỉ để khâu vá quần áo v.v…Món
đậu phộng của tôi phải đau ḷng mà giảm
xuống c̣n 1/2kg, để dành chổ cho ½kg muối. Ăn
đậu phộng mà không có muối cũng không
được; rồi 1/2kg đường, 1/2kg thuốc men +kim chỉ linh tinh
là đă 2kg rồi. Tôi nhắn với gia đ́nh xin đôi dép râu
(1)làm bằng vỏ xe
hơi ,có phẩm chất bền bỉ để những
ngày sắp đến…sẽ theo gót chân tôi c̣n đi dạo
thêm nữa những miền của đất nước
thân yêu mà không biết đến bao giờ tôi mới
được “dừng bước giang hồ”!
Ngày mà các tù cải tạo bắt
đầu nhận quà từ gia đ́nh, phải nói đó là
những chuỗi ngày hội lớn và mừng vui, vừa
biết được tin nhà, vừa có được
tiếp tế thức ăn, thuốc men. Chúng tôi như
được hồi sinh với những món quà từ gia
đ́nh gởi đến, tuy ít ỏi, nhưng thật là
to lớn về vật chất lẫn tinh thần. Chúng tôi
huyên thuyên kể chuyện, bàn thảo với nhau vào
những lúc hết giờ lao động về gia đ́nh,
về dự tính nấu đủ các món ăn với
số quà cáp nhận được. Đứa có món ăn
nầy, người có món khác, hợp lại với nhau
nấu chè, cháo trong những chiếc lon guigo cháy đen mang
theo đựng thức ăn lúc đi tŕnh diện “học
tập cải tạo”, nay đă trở thành những cái
nồi nấu thật hữu dụng. Người
mừng được nhận quà và biết tin tức
từ gia đ́nh, kẻ th́ ngồi trầm ngâm nh́n trời
hiu quạnh, tủi thân ḿnh làm “con Linh mục” không ai
gởi quà, được những người có của
chia sẻ trong t́nh Huynh đệ chi binh, lúc c̣n ở
chiến trường cũng như lúc sa cơ thất
thế, một miếng khi đói bằng một gói khi no.
Có được 1/2kg đậu phộng, mỗi ngày tôi
rang một ít để nhâm nhi, tôi nhín ra một ít chia cho
một người bạn cải tạo “con Linh mục”
nằm kế bên, c̣n lại tôi hùn hạp với những
người bạn khác. Có hôm th́ chúng tôi nấu chè
đậu phộng với cơm nguội do mỗi
đứa nhín ra bỏ vào nồi chè một muỗng
cơm, phần đậu phộng c̣n lại một ít, tôi
mang xuống nhà bếp rang hết, giă đậu phộng
ra và trộn với số lượng nhiều muối
để mỗi bửa ăn tôi có được cái
hương vị mùi thơm của đậu phộng.
Đám tù cải tạo chúng tôi ở
trại Trảng Lớn được 8 tháng th́ có lệnh
biên chế (dời đổi) đi nơi khác.
Một số anh em thuộc diện An Ninh T́nh Báo, Chiến
Tranh Chánh Trị, Cảnh Sát được đoàn xe molotova đến chở đi vào
chập tối, không biết số phận ra sao? Đám tù
cải tạo dân biệt phái (nhập ngũ, xong
được trả về làm giáo chức, công
chức quốc pḥng và các nha sở v.v…) được
phân loại ra đưa đi một nơi khác, c̣n lại
thành phần chúng tôi dân đánh đấm thuộc các
đơn vị tác chiến Hải ,Lục, Không Quân giặc
lái (Việt cộng gọi
mấy anh Pilot VNCH là
giặc lái) được đưa trở về nguyên quán rừng Katum thơ
mộng.
…………………….
Sau nầy, khi tôi được
cộng sản phóng thích cho về với gia đ́nh
dưới sự quản chế vô thời hạn của
chính quyền địa phương, không được
cư trú nơi các thành phố và thị trấn,
rồi thuyền nhân
vượt biển bỏ xứ sở ra đi t́m bờ
bến tự do, được đến định
cư nơi xứ người, thỉnh thoảng tôi
lại thèm ăn cơm trắng với đậu
phộng rang muối. Tôi nhai đậu
phộng rang muối với cơm, hương vị
vẫn ngầy ngậy, béo và thơm ngon như ngày nào lúc
tôi đói thèm trong trại tù cải tạo. Đôi lúc tôi
ngồi nhai cơm với đậu phộng mà cổ
hộng tôi nghẹn ngào xúc cảm, nước mắt
của tôi dâng trào, khi thấy ḿnh đang được
sống trong no đầy hạnh phúc ở một xứ
sở và khung cảnh quá đầy đủ tiện nghi,
trên bàn ăn đầy ấp những thức ăn,
uống. Tôi có cả nồi cơm trắng nấu gạo
jasmine thơm lừng nhập cảng từ xứ Thái Lan
và có cả một hũ đầy những hạt
đậu phộng rang no tṛn vàng hực hiếm quí..,khi tôi
bất chợt nhớ lại một khúc quanh co
của quăng đời ḿnh, ở vào một chuỗi ngày nào
đó trong quá khứ cùng những người bạn tù mà
không biết giờ đây họ đang trôi dạt ở
phương trời nào trên quả đất nầy, hay
là…họ đă vĩnh viễn
ra đi vào cơi b́nh yên hư vô.
Tôi đổ vào tay ḿnh một nắm
đậu phộng rang, định bỏ hết vào
miệng nhai một lần cho nó đă thèm ..nhưng
chợt nhớ lại tháng trước khi tôi đi khám
định kỳ sức khỏe hằng năm, Bác sĩ
gia đ́nh có cho biết là kết quả thử máu của
tôi chất mỡ Triglycerides hơi cao, tôi phải cữ
bớt chất béo và năng tập thể dục. Tôi
liếc mắt đọc tấm label dán bên ngoài hũ
đậu phộng phân chất cho thấy đậu
phộng có lượng chất béo cao.
Nghĩ mà buồn cười cho
cuộc đời của tôi. Lúc đói thèm th́ không có
để mà ăn, giờ có quá nhiều ..tôi lại kiêng
cữ không dám ăn cho nó đă, cho sướng cái
miệng. Sau bao năm sống ở đất tạm dung
nầy, sinh hoạt và hoàn cảnh hiện có đă khiến
cho tôi không dám “liều mạng” như những ngày c̣n trai
trẻ tôi lặng ngụp và khốn đốn theo
từng bước đổi thay của quê hương
khói lửa nay cách xa tôi ngàn dặm.
Tôi bỏ những hạt
đậu phộng rang vào hũ, chỉ chừa lại 4
hạt đậu phộng và tôi cắn nửa hạt
đậu phộng mỗi lần ăn, bởi v́..tôi không
muốn bàn giao vợ của tôi lại cho người khác
sài, để các con của tôi lại cho người khác
sai./.
(1)Dép
râu c̣n gọi là dép B́nh Trị Thiên mà bộ đội
cộng sản từ miền Bắc Việt nam
thường dùng. Sau khi cộng sản tấn chiếm
miền Nam, đôi dép râu trở nên thời trang và thông
dụng nhất là cho giới lao động v́ tính chất
bền chắc và rẻ tiền. Dân miền
“Đôi dép râu dẩm nát đời son
trẻ
Nón
tai bèo che khuất ánh tương lai”
Nón
tay bèo: ám chỉ Việt cộng ở
miền
Người viết dùng những danh từ của
CSVN cho phù hợp với hoàn cảnh lúc đó. Xin quư vị
đọc giả miễn chấp cho. Đa tạ.
MV