LỰC LƯỢNG DÂN SỰ CHIẾN ĐẤU
NHỮNG NĂM ĐẦU (1961 – 1967)
(theo tài liệu VERITAS Vol 5, N. 4,
2009)
Ngày 7 tháng Năm, 1954, Việt
Minh đă chiến thắng quân đội Pháp trong trận
Điện Biên Phủ. Việt Nam bị chia đôi theo
vĩ tuyến 17 và Tổng Thống Dwight D. Eisenhower hứa
sẽ trợ giúp Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm xây
dựng một lực lượng quân sự chống lại
phiá cộng sản. Đến tháng Bẩy
năm 1954, Hoa Kỳ đă có 342 cố vấn quân sự
trong miền nam Việt
Đến năm 1961, miền
Bắc đă dựng nên Mặt Trận Giải Phóng Miền
Nam, thường được gọi là Việt Cộng, phát động
chiến tranh Giải Phóng trong miền nam. Tổng Thống
Kennedy được sự ưng thuận của Quốc
Hội, gia tăng viện trợ kinh tế, quân sự cho
người đă trở thành Tổng Thống VNCH Ngô
Đ́nh Diệm. Sự gíup đỡ này nhằm gia tăng
khả năng chống xâm nhập của Việt Cộng
qua vài chương tŕnh, trong đó có chương tŕnh phát
triển canh tác trên vùng cao nguyên.
Sự thật, chương
tŕnh này để che dấu một hoạt động bí mật
do cơ quan Trung Ương T́nh Báo CIA phác họa ra, nhằm
mục đích thâu thập tin tức về các hoạt
động của du kích cộng sản trong khu vực, và
sự xâm nhập của quân đội Bắc Việt vào
vùng rừng núi cao nguyên, dọc theo biên giới. Sau khi nghiên cứu, đánh giá các nguồn tin tức,
cơ quan CIA sẽ xây dựng một đơn vị Dân Sự
Chiến Đấu, tuyển mộ từ các sắc dân thiểu
số (đồng bào Thượng).
Những toán A, Lực
Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ được
trao cho nhiệm vụ bí mật của cơ quan t́nh báo CIA.
Pḥng Nghiên Cứu Hỗn Hợp trong nhóm Cố
Vấn Quân Viện Hoa Kỳ (MAAG) sẽ yểm trợ,
cung cấp phương tiện huấn luyện cho sắc
dân thiểu số qua kế hoạch Lực Lượng
Dân Sự Chiến Đấu. Tài liệu này là phần
đầu trong hai bài viết về Lực Lượng Dân
Sự Chiến Đấu do người Hoa Kỳ tổ
chức. Phần đầu sẽ nói về việc xây dựng,
phát triển (1961-1967), phần thứ hai sẽ nói về
LL/DSCĐ (CIDG) trong kế hoạch Việt Nam Hóa (1968-1971),
khi lực lượng này được chuyển giao cho
Biệt Động Quân QLVNCH.
Tại sao có lực
lượng Dân Sự Chiến Đấu? Thứ nhất,
cơ quan CIA tin rằng, với một lực lượng
vơ trang bao gồm sắc dân thiểu số sẽ làm cho
chính quyền miền
Đến
năm 1961, sự xâm nhập của địch là một một
mối đe dọa cho chính quyền Ngô Đ́nh Diệm và
quân đội VNCH. Chính quyền miền
Ngôi làng đầu
tiên được chọn là Buôn Enao trong tỉnh Darlac, sau
này gọi là “Thí Nghiệm Buôn Enao”. Theo một sắc
lệnh của Tổng Thống (Hoa Kỳ), việc này
đặt dưới quyền quản trị độc
nhất của pḥng Nghiên Cứu Hỗn Hợp, không lệ
thuộc vào quân đội VNCH cũng như cơ quan Cố
Vấn Quân Viện (MAAG). Trong tháng Mười năm 1961, hai
người Hoa Kỳ, David A. Nuttle, một viên chức trong
cơ quan Dịch Vụ T́nh Nguyện Thế Giới
(International Voluntary Services), đă làm việc tại Việt
Nam từ năm 1959 trong những dự án nông nghiệp, người
kia là Trung Sĩ
Paul F. Campbell, Quân Y Lực Lượng Đặc
Biệt, thuộc Liên Đoàn 1 LLĐB/HK đến buôn Enao.
Trung sĩ
Sau hai tuần lễ “thương
thuyết”, và trung sĩ Campbell biểu diễn tài chữa bệnh
cho dân làng rất thành công, những vị “trưởng lăo”
ưng thuận và tuyên thệ trung thành, để bắt
đầu công việc tổ chức pḥng vệ ngôi làng
(Village Defense Program, VDP). Những người
Thượng xây một hàng rào chiến lược bao quanh
làng và đào hầm trú ẩn cho người già, đàn bà
và trẻ con, đề pḥng Việt Cộng tấn công.
Họ xây cất một khu huấn luyện, một bệnh
xá và tổ chức đường giây lấy tin tức, theo dơi những sự di chuyển của
địch trong khu vực, và báo động khi bị tấn
công.
Đến giữa tháng Mười
Hai năm
1961, “thí nghiệm Buôn Enao” hoàn toàn xong xuôi. Thêm năm mươi
(50) đàn ông từ làng kế cận được huấn
luyện như một lực lượng an
ninh di động để bảo vệ Buôn Enao và khu vực
lân cận. Sau khi hoàn tất ngôi làng “thí điểm đầu
tiên”, vị tỉnh trưởng Darlac cho phép phát triển
ra thêm bốn mươi buôn Thượng Rhade khác trong đường
bán kính 15 cây số từ tâm điểm Buôn Enao và “ép buộc”
vị trưởng làng, phó trưởng làng phải thụ
huấn quân sự.
Chương
tŕnh “Pḥng Vệ Xóm Làng” (VDP) phát triển quá nhanh, trong khoảng
thời gian từ tháng Tư cho đến tháng Mười
năm 1962, thêm hai trăm (200) buôn Thượng khác được
“đoàn ngũ hóa”. Đến cuốn năm 1962, “chuyện
làm ăn coi bộ khấm khá”, chính quyền
miền thị
bao gồm thêm những bộ lạc người Jarai và
Mnong.
Câu chuyện về Buôn Enao làm
tăng thêm các hoạt động của Lực Lượng
Đặc Biệt Hoa Kỳ trong miền
Đại Tá Morton ra lệnh
cho Trung Tá Eb Smith đem theo mười
tám binh sĩ ra Nha Trang, thiết lập căn cứ hành
quân LLĐB (Special Force Operation Base, SFOP), để sau đó
sẽ di chuyển toàn bộ chỉ huy C ra khỏi
Cùng với
đà phát triển, Nhóm Cố Vấn Quân Viện (MAAG) được
sắp xếp lại trở thành Bộ Tư Lệnh Quân
Viện tại Việt Nam (MACV). Sự phát triển
này tạo nên hai việc thay đổi lớn: MACV sẽ cố
vấn và trợ giúp chính quyền miền
Trong tháng Hai năm 1962, pḥng
Nghiên Cứu Hỗn Hợp (CSD) có nhiệm vụ điều
hành LL/DSCĐ, theo dơi các đơn vị
LLĐB/HK phục vụ trong lực lượng này, và phối
hợp các hoạt động của lực lượng
DSCĐ với cơ quan MACV. Đến tháng Năm 1962,
pḥng Nghiên Cứu Hỗn Hợp nhận lănh nhiệm vụ
trang bị, hoạt động của LL/DSCĐ, c̣n Lực
Lượng Đặc Biệt Việt Nam thuộc về
quân đội VNCH. Đó là những thay đổi nhỏ
trong sự làm việc chung giữa Hoa Kỳ
và VNCH.
Vào ngày 23 tháng Bẩy năm
1962, bộ Quốc Pḥng (HK) ban hành quyết định 57 An Ninh Quốc Gia. Theo quyết
định này, cơ quan Trung Ương T́nh Báo CIA sẽ
bàn giao tất cả những hoạt động bán quân sự
(như LL/DSCĐ) bí mật cho bộ tư lệnh Quân Viện
Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV). Quân
đội Hoa Kỳ sẽ phải lo vấn đề yểm
trợ tiếp vận cho Lực Lượng Dân Sự Chiến
Đấu. Bộ Quốc Pḥng vẫn nắm
giữ quyền bổ nhiệm vị chỉ huy trưởng
LLĐB/Hoa Kỳ tại Việt LL/DSCĐ.
Trong kế hoạch
Trở Lại (Switchback), nhiệm vụ của LL/DSCĐ
thay đổi đôi chút. Việt Cộng
là mục tiêu chính, nhưng không được tuyển mộ
thêm sắc dân thiểu số (dân số họ vốn
đă ít). Kế hoạch Trở Lại
(Switchback) này phải được hoàn tất vào ngày 1
tháng Bẩy năm 1963. Lúc đó quân Mũ Xanh, LLĐB
Hoa Kỳ đă huấn luyện quân sự đầy đủ
cho các trại DSCĐ, lực lượng xung kích, tiếp ứng
(Mobile Strike Force – Mike Force) để làm trở ngại cho sự
xâm nhập, bành trướng của quân đội Bắc
Việt và Việt Cộng trong những khu vực xa xôi hẻo
lánh, miền nam Việt Nam.
Những thành quả đạt
được trong chương tŕnh “Pḥng Vệ Xóm Làng”
(VDP) và Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu
(CIDG) từ tháng Năm 1962 đến tháng Mười 1963 gần
như biến mất, v́ những biến cố quân sự,
chính trị xẩy ra trong miền nam.
Cuộc đảo chánh ngày 1
tháng Mười Một năm 1963, đưa đến cái
chết của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và người
em trai của ông ta, ông cố vấn Ngô Đ́nh Nhu. Biến
cố lớn này là động lực thúc đẩy cơ
quan Quân Viện MACV và Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa thay
đổi theo t́nh thế. Trước
đó, Tổng Thống Diệm không đồng ư cơ quan
MAAG/MACV và cấp chỉ huy trong quân đội miền
Ngày 5 tháng Giêng năm 1964, chính
quyền “quân đội”, dựa vào kế hoạch Trở
Lại (Switchback), không chấp thuận LLĐB/VN biệt lập,
đặt dưới sự chỉ huy, kiểm soát của
QL/VNCH. Cơ quan MACV được quyền hành rộng
răi, nhanh chóng kiểm soát LLĐB/HK, các đơn vị
Mũ Xanh Hoa Kỳ bị đặt dưới quyền
chỉ huy của các sĩ quan cao cấp, cố vấn Hoa
Kỳ trên các vùng chiến thuật thuộc cơ quan MACV.
Đại Tá
Theodore Leonard được chỉ định thay thế
Đại Tá Morton làm chỉ huy trưởng LLĐB/HK tại
Việt
Trong nhiệm vụ mới
được trao phó cho LL/DSCĐ, cơ quan MACV muốn
biên giới nam Việt Nam phải được pḥng ngự
bằng những trại biên pḥng LLĐB, tuyển mộ từ
“lính đánh thuê” sắc dân Nùng. LL/DSCĐ được tổ
chức lại theo kiểu chính quy, thành
những đơn vị tác chiến (Strike Forces) để
giảm bớt gánh nặng cho QL/VNCH.
Sự thay đổi
trong vấn đề điều hành, quản trị và sự
kỳ thị dân tộc thiểu số của giới chức
thẩm quyền Việt loạn kết
thúc, khi các cố vấn Hoa Kỳ đứng ra làm trung
gian, khuyến cáo giới chức, thẩm quyền VNCH rằng,
có lợi cho cả đôi bên, nếu chính quyền VNCH công
nhận một ít “quyền” của họ. Cuộc
nổi loạn tạm thời chấm dứt mà phần cuối,
nhiều vấn đề vẫn chưa t́m ra câu trả lời.
Lực Lượng Đặc
Biệt phải chấp nhận thực tế: cơ quan
MACV không thích những lực lượng “ngoại lệ”;
người Việt coi thường các sắc dân thiểu
số, người Thượng; các trại DSCĐ biên
pḥng sẽ bị phá bỏ nhanh chóng cũng như khi chúng
được xây dựng. Khi vấn đề nội bộ
của quốc gia lung lay, quân Việt Cộng
gia tăng các hoạt động. Bộ Quốc Pḥng và cơ
quan MACV nhận định rằng, nhiệm vụ của
LLĐB trong tương lai và luật lệ làm việc (gia
nhập DSCĐ) ở Việt
Ngày 1 tháng Mười năm
1964, bộ Quốc Pḥng chấp thuận, đưa 1297 quân
nhân Mũ Xanh thuộc Liên Đoàn 5 LLĐB (cả một
đơn vị) từ căn Fort Bragg đến Nha Trang thay
thế nhiệm vụ cho LLĐB/HK tại Việt Nam. Các
quân nhân Mũ Xanh đang phục vụ tại Việt Nam
(674 người) sẽ nhập vào liên đoàn 5/LLĐB Hoa Kỳ.
Các quân nhân LLĐB/HK sẽ phải phục vụ một
năm tại Việt Nam, kỳ hạn sáu tháng trước
đây sẽ hết hiệu lực kể từ ngày 1 tháng
Năm, 1965.
Nhiệm vụ mới của
liên đoàn 5/LLĐB hoa Kỳ gồm có: Cố vấn cho cơ
quan MACV về việc thiết lập (xây dựng), cũng
như bỏ rơi (đóng cửa) các trại biên pḥng
LLĐB; xây dựng thêm trại LLĐB mới, cố vấn
cho bộ tư lệnh LLĐB Việt Nam; và nếu nhu cầu
cần thiết, sẽ huấn luyện cho các đơn vị
LLĐB/VN và LL/DSCĐ. Trong nhiệm vụ mới
này, liên đoàn 5/LLĐB Hoa Kỳ thiết lập bốn bộ
chỉ huy C, mười hai bộ chỉ huy B, và bốn mươi
tám toán A LLĐB vào tháng Hai, năm 1965.
Thời gian đầu, sự
hiện diện của liên đoàn 5/LLĐB Hoa Kỳ chỉ
có ảnh hưởng chút ít đến các toán A LLĐB (biên
pḥng) hoặc các đơn vị xung kích (Strike Force)
DSCĐ. Lực Lượng Đặc Biệt
vẫn tiếp tục nhiệm vụ cố vấn, yểm
trợ LL/DSCĐ trong khi các đơn vị xung kích bảo
vệ các làng mạc của dân tộc
thiểu số.
Trong dịp Tết
vào cuối năm 1964, t́nh thế chiến trường tại
Việt
Với đà gia tăng xâm nhập
của Việt Cộng và quân đội từ miền Bắc
vào. Thay v́ giúp đỡ chính quyền miền Nam tự phát
triển quân đội và đảm nhận vai tṛ pḥng vệ,
những tướng lănh cao cấp trong quân đội Hoa Kỳ
đă đưa vào chiến trường Việt Nam, những
đơn vị chiến đấu lớn, tiếp tay với
quân đội VNCH. Cơ quan MACV dự định
sẽ “chính quy hóa” LL/DSCĐ, chuyển một số đơn
vị DSCĐ chọn lọc qua Điạ Phương
Quân, và sẽ hoàn tất vào ngày 1 tháng Giêng (đầu
năm) 1967. Tiếp theo là kế hoạch
đưa hết quân Mũ Xanh LLĐB về lại Hoa Kỳ
(Tướng Westmoreland tính chuyện ‘Chiến Tranh Quy Ước’).
Các đơn vị xung kích DSCĐ sẽ không c̣n nhiệm vụ
bảo vệ xóm làng nữa mà sẽ phải tấn công
địch quân trên các chiến trường trong miền
nam Việt nam.
Trong giai đoạn chuyển
tiếp này, bộ tư lệnh MACV nhận định rằng,
cán bộ LLĐB/HK chỉ huy DSCĐ rất giỏi về
lấy tin tức, lùng và diệt địch, và có thể tự
lực chiến đấu. Những khả năng này là một
cây kiếm hai lưỡi của LLĐB và đơn vị
xung kích DSCĐ. Những tin tức t́nh báo tác
chiến thâu thập được được phân tích
để gia tăng hiệu năng, củng cố thêm sức
mạnh cho LL/DSCĐ. Nhu cầu lấy tin tức về
sự xâm nhập của quân đội Bắc Việt gia
tăng trong khoảng thời gian từ năm 1965 đến
năm 1968, việc pḥng vệ các làng người dân tộc
thiểu số giảm đi.
Các đơn vị DSCĐ
được quân Mũ Xanh LLĐB Hoa Kỳ chỉ huy vẫn
tiếp tục chạm trán với địch quân. Được trực thăng yểm trợ, bắt
đầu từ tháng Năm 1966, LL/DSCĐ trở nên di
động, tiếp ứng nhanh chóng. Là một đơn
vị xung kích lưu động (Mobile Strike Force – Mike Force),
chiến sĩ DSCĐ phải đi hành quân thường
xuyên, làm đơn vị tấn công hoặc tiếp ứng
cho các trại biên pḥng, khi các trại này bị tấn công. Đến tháng Chín năm 1966, LLĐB/HK thiết lập
thêm hai mươi hai trại LLĐB mới, và tăng số
trung đội trinh sát DSCĐ từ ba mươi tư lên
bẩy mươi ba. Bộ tư lệnh
Quân Viện MACV ra lệnh cho LĐ5/LLĐB/HK thiết lập
trường huấn luyện “Recondo” (Trinh Sát Cảm Tử
-
Với sự thành công, đạt
được nhiều kết quả trong năm 1966,
đặc biệt trong các trận đột kích ban
đêm, Tuớng Westmoreland ra lệnh cho Đại Tá Francis
J. Kelly, chỉ huy trưởng liên đoàn 5/LLĐB Hoa Kỳ
xem xét lại việc xử dụng các toán A LLĐB trên toàn
lănh thổ miền nam Việt Nam và đưa ra những kế
hoạch hàng năm để phối hợp với các vị
tư lệnh vùng chiến thuật.
Chuyện “xét lại” này được
bộ tư lệnh MACV đưa ra bản hướng dẫn:
Mỗi toán A LLĐB và các trại biên pḥng phải hoạt
động tối đa trong nhiệm vụ trao phó. Những
toán A LLĐB có thể được thay thế bằng
cách hoán chuyển đơn vị xung kích DSCĐ sang quân
đội VNCH. Phối hợp làm việc với
các cố vấn trưởng tại các quân đoàn và phiá
Việt Nam Cộng Ḥa. “Chỉ nói đơn giản,
nhiệm vụ chúng tôi là trợ giúp để người
Việt
Đến
năm 1967, bộ tư lệnh Quân Viện MACV đưa
ra một chương tŕnh, nhưng không có thời khóa biểu
nào đề ra để chấm dứt chiến tranh.
Chỉ nói đến việc tăng cường quân đội
Hoa Kỳ tại Việt
Không may cho cả Hoa Kỳ và
quân đội VNCH, phiá Bắc Việt cũng có một... kế
hoạch riêng của họ. Kế hoạch
dài hạn của cơ quan MACV xụp đổ vào tháng
Giêng năm 1968 khi quân cộng sản tổng tấn công
nhân dịp Tết (Mậu Thân).
NHỮNG NĂM SAU (1968 – 1971)
QUÂN
LỰC VNCH TIẾP NHẬN LL/DSCĐ
Nhiệm vụ
chính yếu của liên đoàn 5 LLĐB Hoa Kỳ trong hai
năm rưỡi cuối cùng là bàn giao hoàn toàn Lực Lượng
Dân Sự Chiến Đấu (CIDG) cho QL/VNCH. Quan niệm về Việt Nam Hóa là trọng điểm
chiến lược của quân đội Hoa Kỳ trong
hai năm 1968, 1969 nên cũng không có ǵ mới lạ cho liên
đoàn 5 LLĐB. Tuy nhiên LLĐB/VN vẫn chưa huấn
luyện đầy đủ phần chuyên môn cho quân nhân
LLĐB/VN, có lẽ v́ sự tham chiến với những
đơn vị cấp lớn của quân đội Hoa Kỳ,
làm cho trận chiến có vẻ quy ước, trận điạ chiến hơn là một
trận chiến tranh ngoại lệ.
Dầu thế nào chăng nữa,
liên đoàn 5 LLĐB/HK đă ra lệnh, đẩy mạnh
nhiệm vụ chiến đấu vào tay
quân đội VNCH. LLĐB/HK chỉ có nhiệm
vụ giúp đỡ miền nam chiến thắng. Kết
qủa thắng hay bại nằm trong tay
người Việt
Lực Lượng Đặc
Biệt Hoa Kỳ vẫn tiếp tục chiến đấu
cho đến ngày họ trở về Hoa Kỳ. Trong khoảng
thời gian chuyển tiếp này, họ vẫn xây dựng
thêm các tiền đồn biên pḥng mới và sửa sang, tu bổ
những trại cũ để chuẩn bị bàn giao cho
QL/VNCH.
Những kế
hoạch chuyển giao LL/DSCĐ cho Việt Nam Cộng Ḥa thực
ra đă có từ đầu năm 1964. Tuy
nhiên, t́nh h́nh chiến sự trở nên nặng nề hơn
từ sau trận tấn công Tết Mậu Thân 1968, làm cho
những đơn vị chính quy VNCH chưa thể đảm
trách nhiệm vụ biên pḥng cho đến năm 1970.
Trong năm 1969, bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH và bộ tư
lệnh Quân Viện (MACV) nh́n thấy sự phát triển và
đồng ư rằng, QLVNCH đă có thể gánh vác trách nhiệm
biên pḥng, ngăn chặn đường tiếp tế, xâm
nhập của Bắc Việt vào miền nam Việt Nam.
Mặc dầu các trại
LLĐB nội điạ vẫn tiếp tục được
chuyển giao cho QL/VNCH (Điạ Phương Quân) khi t́nh
h́nh an ninh trong khu vực trách nhiệm của
trại đă được b́nh định. Nhiệm vụ của LLĐB/HK thâu gọn lại.
Đến năm 1970, chương tŕnh Dân Sự
Chiến Đấu có thể được coi như kết
thúc. Một tiểu ban trong bộ tư lệnh Quân Viện
(MACV) được triệu tập vào ngày 20 tháng Ba năm
1970 để t́m một giải pháp kết thúc chương
tŕnh Dân Sự Chiến Đấu một cách êm thắm.
Tiểu ban này khuyến cáo, tất
cả các trại LLĐB (DSCĐ) c̣n lại phải được
bàn giao cho QL/VNCH (binh chủng Biệt Động Quân) trong
khoảng thời gian từ tháng Tám cho đến tháng Mười
hai năm 1970. Vấn đề bàn giao các trại
biên pḥng này bao gồm việc đồng hóa các dân sự
chiến đấu trở thành quân nhân trong QL/VNCH. Một
hệ thống tiền đồn biên pḥng do các tiểu
đoàn Biệt Động Quân Biên Pḥng đảm trách
được dựng lên để thay thế Lực Lượng
Dân Sự Chiến Đấu. Binh chủng
LLĐB/VN sẽ phụ giúp Biệt Động Quân trong việc
cải tuyển nhân sự để các dân sự chiến
đấu gia nhập quân đội VNCH. (sắc dân thiểu số, đồng bào Thượng
không bị ràng buộc bởi luật động viên. Họ
được tự do trở về với xóm làng, bản
Thượng của họ nếu mốn). Cho
tới giai đoạn cuối, LLĐB/VN cùng với quân
Mũ Xanh LLĐB/HK khuyến khích, giải thích cho các dân sự
chiến đấu về quyền lợi khi gia nhập
QL/VNCH. Do đó đa số họ được chuyển
qua Biệt Động Quân.
Năm 1970, cường
độ chiến tranh có vẻ giảm xuống.
QL/VNCH và Hoa Kỳ mở những cuộc hành quân qua đất
Miên nhằm phá hủy các căn cứ điạ, hậu cần
của địch. Đặc biệt trong
vùng III chiến thuật, có sự tham dự của
LL/DSCĐ và kết qủa áp lực của địch nơi
các trại biên pḥng giảm đi rất nhiều.
Cũng trong
năm 1970, ngoài quân khu I, quân đội Bắc Việt và Việt
Cộng vẫn tạo áp lực. Bộ chỉ huy C1
(đại đội C, liên đoàn 5 LLĐB/HK) ngoài Đà
Nẵng vẫn chịu trách nhiệm về các hoạt
động LLĐB ngoài vùng I và trại LLĐB Tiên Phước
(A-102, TĐ77/BĐQ/BP) được chấm điểm
là đơn vị xuất sắc nhất trong vùng chiến
thuật năm 1970. Trong thời gian khoảng hai hoặc ba
tháng, LL/DSCĐ Tiên Phước loại khỏi ṿng chiến
50, 60 địch quân mỗi tháng mà chỉ bị tổn thất
nhẹ.
Trong khoảng thời gian
đó, một buổi sáng sớm, trại LLĐB Mai Lộc
(A-101, đóng cửa không chuyển qua BĐQ/BP) bị đặc
công của địch tấn công, lọt vào bên trong căn
cứ phá hủy nhiều công sự pḥng thủ trước
khi bị LL/DSCĐ trú pḥng đẩy lui. Ít lâu sau khi căn
cứ Mai Lộc bị tấn công, trại LLĐB Thường
Đức (A-109, TĐ79/BĐQ/BP) bị địch bao vây,
pháo kích bằng súng cối. Quân đội Bắc Việt
bao vây căn cứ 60 ngày nhưng sau đó phải rút lui, tiền
đồn biên pḥng đứng vững. Đến
tháng Mười, địch quay trở lại tấn công
nhưng bị đẩy lui để lại 74 xác chết.
Trong thời gian một tuần lễ, quân
đội Bắc Việt mở ba trận tấn công lớn
nhưng không thành công với tổn thất 150 quân.
Năm 1970, trên
vùng cao nguyên, thuộc quân đoàn II, địch quân thường
bao vây các trại LLĐB. Các hoạt động
LLĐB trong vùng II chiến thuật do bộ chỉ huy C2
(đại đội B, liên đoàn 5 LLĐB/HK) đảm
trách. Trại LLĐB Bu Prang (A-236, TĐ89/BĐQ/BP) bị
vây hăm 45 ngày cho đến cuối năm 1969 đă được
sửa sang, tái thiết với các công sự
pḥng thủ hoàn toàn ngầm dưới mặt đất.
Trại LLĐB Dak Seang (A-245, TĐ90/BĐQ/BP) bị bao vây
kể từ 6 giờ 45 phút sáng ngày 1 tháng Tư năm 1970.
Sau đó địch quân đă tỏ vẻ nhất quyết
san bằng căn cứ Dak Seang, bộ tư lệnh quân
đoàn II vội vàng đưa Biệt Động Quân cùng
với Lực Lượng Xung Kích Tiếp Ứng (Mobile
Strike Force, Mike Force cũng thuộc LLĐB) lên đánh giải
vây cho tiền đồn biên pḥng này.
Biệt Động Quân cùng
đơn vị tiếp ứng gây tổn thất nặng
nề cho các đơn vị chính quy Bắc Việt, trung
đoàn 28, trung đoàn 66 và trung đoàn 40 Pháo Binh. Mười
hai ngày sau khi tấn công căn cứ Dak Seang, địch
quân chuyển hướng tấn công qua bao vậy trại
LLĐB Dak Pek (A-242, TĐ88/BĐQ/BP). Địch chỉ
pháo kích vào căn cứ và xử dụng đặc công và bị
đẩy lui.
Cuộc hành quân
qua Miên, QL/VNCH giải cứu và đưa về nhiều Việt
kiều. Đó cũng là một vấn
đề cho chính phủ VNCH. Một số làng được
xây cất trong tỉnh Phước Long dành cho Việt kiều
hồi hương v́ tỉnh này đất đai
trù phú lại ít dân cư. Những ngôi làng này
được xây cất gần trại LLĐB Bu Prang và
Đức Lập (A-239, TĐ96/BĐQ/BP).
Các trại biên pḥng và đơn
vị LLĐB trong lănh thổ quân khu III trực thuộc bộ
chỉ huy C3 (đại đội A, liên đoàn 5
LLĐB/HK). Trong cuộc hành quân vượt biên, một số
đại đội DSCĐ thuộc hai trại LLĐB Dức
Huệ (A-325, TĐ83/BĐQ/BP) và Trà Cú (A-316,
TĐ64/BĐQ/BP). Các đại đội DSCĐ này tấn
công các căn cứ huấn luyện của địch bên
Miên và khám phá nhiều kho vũ khí, quân dụng, hậu cần
của địch trong tháng Năm, 1970.
Trước đó, vào đầu
năm 1970, lực lượng Xung Kích Lưu Động
(Mobile Strike Force) quân đoàn III đă gây tiếng vang, khám phá
và tịch thu được một kho vũ khí lớn của
địch. Lực lượng Xung Kích hành quân lục soát
trong chiến khu D gần khu vực rừng Rang Rang, một
căn cứ điạ kiên cố, chắc chắn của
địch đă khám khá ra kho vũ khí đó, gồm 450 khẩu
súng trường SKS, 1034 đạn súng cối 82 ly, 130 hỏa
tiễn 122 ly và gần 200 tấn đạn dược
đủ loại. Các trại LLĐB khác, Katum (A-375,
TĐ84/BĐQ/BP), Tống Lê Chân (A-334, TĐ92/BĐQ/BP) và Bù
Đốp (A-341, TĐ97/BĐQ/BP) bị địch quấy
rối, pháo kích bằng súng cối thường xuyên. Nặng nhất là trại Katum, có ngày bị pháo
kích hơn 300 quả đạn súng cối. Sau cuộc hành quân qua Miên, cũng như trên quân
đoàn II, t́nh h́nh các trại LLĐB tạm yên.
Các trận đánh dưới
vùng IV chiến thuật do LLĐB đảm trách, xử dụng
những phương tiện do LLĐB phát triển thích hợp
trong vùng đồng bằng Cửu Long có nhiều kênh rạch,
sông ng̣i. Đại đội xung kích thuộc
bộ chỉ huy C4 (đại đội D, liên đoàn 5
LLĐB/HK) xử dụng những loại thuyền máy, thuyền
bay trong các cuộc hành quân rất hiệu quả. Các
trận chạm súng với địch thuờng xẩy ra
trong khu vực Thất Sơn, khi đại đội xung
kích kết hợp với các đơn vị xung kích thuộc
hai trại LLĐB Ba Xoài (A-421, TĐ94/BĐQ/BP), Vĩnh Gia (A-149, TĐ93/BĐQ/BP) mở cuộc
hành quân tảo thanh. Trại LLĐB Ba xoài và căn cứ
Chi Lăng (toán B LLĐB) đều bị địch tấn
công nhưng thất bại. Nói chung trên bốn
vùng chiến thuật, vùng IV vẫn yên ổn nhất.
Các hoạt động
dân sự vụ trong chương tŕnh Dân Sự Chiến
Đấu là một khiá cạnh rất quan trọng trong cuộc
chiến. Lực Lượng Đặc
Biệt Hoa Kỳ đă bọc lộ sự quyết tâm
đối với người dân miền nam Việt nam.
Bảng tóm lược các hoạt
động dân sự vụ do liên đoàn 5 LLĐB/HK đă
thực hiện trong khoảng thời gian 1964 – 1970 cho biết,
họ đă thực hiện 49902 chương tŕnh trợ
giúp kinh tế, 34334 chương tŕnh giáo dục, 35468 chương
tŕnh phát triển đời sống, 10959 chương tŕnh
y tế, cung cấp 14934 phương tiện di chuyển,
giúp đỡ 479568 người tỵ nạn, đào 6436 giếng
nước, sửa chữa 1949 cây số đường
xá, xây cất 129 nhà thờ, 272 cái chợ, 110 trạm xá khám
bệnh, 398 hố chứa rác, xây 1003 lớp học, và 672
chiếc cầu.
Trên lănh vực quân sự, danh
từ “cuốn gói” được xử dụng để
chấm dứt hay không c̣n khả năng sẵn sàng tác chiến
(làm việc) nữa. Khi liên đoàn 5 LLĐB/HK nhận được
lệnh “cuốn gói”, lúc đó họ đă sẵn sàng sau mười
năm tham chiến tại Việt
Đến ngày 1
tháng Sáu năm 1970, chỉ c̣n lại 38 trại Dân Sự Chiến
Đấu. Những trại nội
điạ khác đă được chuyển giao cho Điạ
Phương Quân hoặc đóng cửa. Bộ Tổng
Tham Mưu QL/VNCH và bộ tư lệnh Quân Viện (MACV) quyết
định chuyển giao các trại biên pḥng c̣n lại cho
Biệt Động Quân với thời hạn chót phải
hoàn tất là ngày 31 tháng Mười Hai năm 1970. Những
trại LLĐB (DSCĐ) tương đối an ninh, dễ
tiếp tế trong mùa mưa được chuyển giao
trước, sau đó mới đến các trại nằm
xa xôi, trong khu vực thường xuyên có các hoạt động
của địch. Riêng trại Mai Lộc
đóng cửa (bỏ) nên số c̣n lại chuyển qua
BĐQ là 37 trại.
Trong giai đoạn chuyển
tiếp, liên đoàn 5 LLĐB/HK sẽ quay trở về Hoa
Kỳ ngày 31 tháng Ba năm 1971 nên vẫn tiếp tục yểm
trợ cho 37 trại biên pḥng. Khi đă chuyển giao cho Biệt
Động Quân, quân số của liên đoàn 5 LLĐB/HK giảm
xuống, gây trở ngại rất lớn trong vấn
đề yểm trợ tiếp vận cho các trại Biệt
Động Quân Biên Pḥng. Bộ chỉ huy
BĐQ QL/VNCH không có đủ số cố vấn Hoa Kỳ
cho các trại biên pḥng vừa mới nhận lănh.
Để “gỡ” cho BĐQ, các toán A LLĐB/HK được
lệnh để lại toán cố vấn 3 người
trong các trại biên pḥng cho đến khi các toán cố vấn
BĐQ được đưa ra căn cứ.
Chương
tŕnh chuyển giao các trại DSCĐ cho Biệt Động
Quân tiến hành rất êm xuôi. Một phần
v́ toán A LLĐB/VN ở lại trại, vị sĩ quan trưởng
trại trở thành tiểu đoàn trưởng Biệt
Động Quân. Ông ta đă am tường, quen thuộc
với nếp sinh hoạt, điều hành căn cứ,
vùng hành quân, khu vực trách nhiệm.
Vđh