TRẠI LLĐB KHÂM ĐỨC
12/5/1968
Lời nói đầu: rất ít tài liệu viết
về câu chuyện xẩy ra ngày 12 tháng 5 năm 1968. Đó
là một câu chuyện rất can đảm trong trận chiến
tranh Việt Nam, thực ra trong tất cả các trận chiến
tranh. Trong ngày hôm đó, một số quân nhân thuộc Không Lực
Hoa Kỳ lái vận tải cơ C-130, phi công trực
thăng cùng với phi hành đoàn Lục Quân, TQLC đă quên
mạng sống của ḿnh để lo di tản đơn
vị pḥng thủ Dân Sự Chiến Đấu trại Lực
Lượng Đặc Biệt Khâm Đức. Một tiền
đồn biễn pḥng trong miền nam Việt Nam gần
biên giới Lào-Việt.
KHÂM
ĐỨC
Lực Lượng
Đặc Biệt Hoa Kỳ đến Khâm Đức
năm 1963. Đây là một khu vực hẻo
lánh gần như không có dân cư, thuộc miền viễn
tây trong một vùng lănh thổ mà sau này là quân đoàn I, vùng I
chiến thuật VNCH. Cả khu vực
chỉ có một ngôi làng nhỏ, nằm lặng lẽ trong
thung lũng, xung quanh có những ngọn đồi cao hơn
2000 bộ (feet) bao bọc.
Chỉ cách biên
giới Lào-Việt vài dặm, trại LLĐB Khâm Đức
là một điạ điểm rất tốt để
đưa những toán biệt kích, viễn thám xâm nhập
vào đất Lào. Khi chiến tranh lan
rộng, gia tăng cường độ, trại LLĐB
Khâm Đức có thêm nhiệm vụ, huấn luyện các
đại đội Dân Sự Chiến Đấu. Các đại đội DSCĐ này được
tuyển mộ từ các sắc dân thiểu số trong miền
nam và đưa lên Khâm Đức huấn luyện, sau
đó đưa ra các trại LLĐB biên pḥng.
Trại LLĐB
Khâm Đức được thiết lập chỉ cách
ngôi làng một quăng ngắn, để cho các dân sự chiến
đấu được sống gần gia đ́nh.
Trong ṿng 5 năm trước ngày định mệnh “Ngày Lễ
Của Mẹ” (Mother’s Day, 12 tháng 5), hàng tấn dụng cụ,
vật liệu, đồ tiếp tế được
phi cơ vận tải C-130, C-123 thuộc Không Lực Hoa Kỳ
đưa vào trại thường xuyên. Để cho phi cơ
vận tải lên xuống dễ dàng, một phi đạo
dài 6000 bộ (feet) được xây dựng, nằm trong
thung lũng giữa trại LLĐB và ngôi làng Thượng.
Trận tổng công kích Tết
Mậu Thân 1968, làm cho trại LLĐB Khâm Đức tăng
lên độ quan trọng chiến thuật. Trong hai ngày 6 và
7 tháng Hai năm 1968, trại LLĐB Lang Vei rơi vào tay quân
đội Bắc Việt. Cũng trong cùng thời gian, 5000
TQLC/HK và một tiểu đoàn BĐQ/VN (TĐ37/BĐQ) nằm
trấn giữ căn cứ Khe Sanh 77 ngày, chống lại
20000 quân Bắc Việt bao vây căn cứ. Căn cứ Khe Sanh chỉ cách trại
LLĐB Khâm Đức chừng 100 dặm về hướng
bắc. Đến cuối tháng Tư 1968, trại LLĐB
Khâm Đức là tiền đồn biên pḥng cuối cùng c̣n
sót lại ngoài quân đoàn I và vị trí chiến lược
của căn cứ đă được cả hai phiá
(Đồng Minh/CS) để ư.
Sau khi trận bao vây căn cứ
Khe Sanh chấm dứt, quân đội Bắc Việt di chuyển
về hướng nam... Khâm Đức. Họ đưa
quân lên chiếm những ngọn đồi bao quanh trại
LLĐB Khâm Đức và phi đạo trong thung lũng, vằ
đến hết tuần lễ dầu trong tháng Năm,
quân đội Bắc Việt đă sẵn sàng để tấn
công. Trung đoàn 1, sư đoàn 2 Bắc Việt
được trang bị đầy đù vũ khí, tiếp
liệu và quân số đă trên chân quân pḥng thủ trại
LLĐB. Các cấp chỉ huy quân đội
Đồng Minh đă có thể nh́n thấy trước mắt
một trận Lang Vei thứ hai sắp xẩy ra.
Bộ tư lệnh Quân Viện
(MACV) tức tốc ra lệnh dưa thêm quân lên tăng cường
trại LLĐB Khâm Đức. Trước khi viện binh
ra đến nơi, quân đội Bắc Việt đă bắt
đầu tấn công vào sáng sớm hôm thứ Sáu ngày 10
tháng Năm 1968.
Những quả đạn
súng cối rơi xuống các tiền đồn nằm bên
ngoài căn cứ trước 3 giờ sáng. Sau đó bộ
binh Bắc Việt tấn công với sự yểm trợ
của súng đại liên và đại bác không dật 57, 75
ly. Từ trên các cao điểm, họ bắn
đại bác không dật rất chính xác vào các vị trí
pḥng thủ của quân đội Hoa Kỳ và VNCH. Bốn
mươi lăm phút sau, địch quân mở mũi tấn
công thứ hai vào một tiền đồn cấp đại
đội pḥng thủ vững chắc trên ngọn núi Ngok
Tavak.
Ngok Tavak nằm
cách trại LLĐB Khâm Đức khoảng năm dặm,
nơi ḍng sông xuôi về hướng nam. Tiền đồn
này được một đại đội 113 dân sự
chiến đấu bảo vệ, cùng với 8 cố vấn
LLĐB, 3 cố vấn Úc Đại Lợi (Australia). Trong
căn cứ c̣n có một trung đội pháo binh TQLC/HK, với
33 quân nhân thuộc pháo đội D, tiểu đoàn 2, trung
đoàn 12 TQLC/HK.
Ngày hôm trước,
Ngok Tavak nhận thêm một trung đội dân sự chiến
đấu đến từ Khâm Đức. Trung đội
này được trao cho nhiệm vụ trấn giữ
pḥng tuyến bên ngoài tiền đồn. Trung đội
này đă bị địch quân gài nội tuyến, nên khi
quân đội Bắc Việt mở trận tấn công, mấy
tên nội tuyến chạy vào bên trong nơi tuyến pḥng
thủ TQLC/HK có hai khẩu đại bác, ném lựu đạn
vào.
Đến 5 giờ sáng, tiền
đồn Ngok Tavak, rải rác những xác chết và những
người bị thương Việt, Mỹ. Địch
quân tấn công vào tuyến pḥng thủ hướng đông,
trực thăng vơ trang được gọi lên oanh kích sát
ngay tuyến pḥng thủ bên trong, mặc dầu rải rác
trong đó có xác hoặc người binh sĩ bị thương
thuộc quân bạn. Đó là cách duy nhất
để cứu những người c̣n sống sót.
Khi trời sáng, cố vấn
Úc Đại Lợi (LLĐB/SAS Úc) chỉ huy dân sự chiến
đấu, phản công, đẩy lui địch quân ra khỏi
tuyến pḥng thủ để TQLC/HK phá hủy hai khẩu
đại bác. Tiếp theo là đoàn trực
thăng Hoa Kỳ đổ xuống tiền đồn thêm
45 dân sự chiến đấu đến tiếp viện
và di tản những người bị thương nặng.
Trong lúc đổ quân, một trực thăng trúng đạn
nơi thùng xăng phải đáp
khẩn cấp, một chiếc khác bị hỏa tiễn
điạ-không bắn rơi, nổ tung
như quả cầu lửa. Khi chiếc trực thăng
cuối cùng rời tiền đồn Ngok Tavak, hai quân nhân
LLĐB/VN một Hoa Kỳ bám theo càng trực
thăng, tất cả đều bị rơi xuống, chết
trong rừng.
Bị đẩy lùi ra những
triền núi xung quanh Ngok Tavak, quân đội Bắc Việt
tiếp tục pháo kích súng cối vào căn cứ. Ngok Tavak gửi công điện, yêu cầu được
rút lui, nhưng không được chấp thuận. Họ được lệnh nằm chờ thêm
quân lên tiếp viện.
Trong phi trường
Tân Sơn Nhất, trung sĩ Không Quân Mort Freedman sau khi gác
điện thoại, lên tiếng gọi người bạn
thật to “Nhanh lên Jim. Ḿnh có nhiệm vụ”.
Trung sĩ Jim Lundie cùng với Freedman lên chiếc xe Jeep đặc biệt của họ chạy
lại một phi cơ C-130 đang đậu trong phi trường.
Chiếc xe Jeep, cũng đi theo họ, đằng sau xe là
máy móc truyền tin trị giá 60000 đô la, đó cũng là
vũ khí của hai quân nhân Hoa Kỳ.
Hai trung sĩ
Freedman và Lundie là “chuyên viên hành quân”, điều hành không trợ.
Họ được huấn luyện đặc
biệt như LLĐB nên được phép đội
mũ beret xanh, mặc dầu cả hai thuộc quân chủng
Không Quân. Cùng đi với họ là thiếu tá John
Gallagher, phi công C-130, ba người cùng chiếc xe Jeep lên một chiếc máy bay C-130 đợi
sẵn theo lệnh của MACV, đưa họ đến
trại LLĐB Khâm Đức để điều động
cuộc di tản.
Nhiệm vụ của ba người
là “điều không”, xắp xếp những chuyến C-130
đem đến trại vũ khí nặng, đạn dược,
đồ tiếp vận, và một tiểu đoàn thuộc
lữ đoàn Bộ Binh Nhẹ 196, thuộc sư đoàn
Americal, từ căn cứ Chu Lai lên tăng viện. (sư đoàn Americal là thủ phạm trong vụ
Mỹ Lai).
Trong khi đó tiền
đồn Ngok Tavak đă hết sức chịu đựng
các đợt tấn công, pháo kích của địch. Đạn dược cũng đă gần cạn,
cùng với các đồ tiếp liệu. Tinh thần quân pḥng vệ đă xuống, ít người
tin tưởng nơi viện binh. Đến trưa,
binh sĩ pḥng thủ tiền đồn Ngok Tavak, gom súng ống,
cùng với tất cả đồ trang bị tiếp liệu
không đem theo được, ra đốt.
Họ xử dụng ống phóng hỏa tiễn M-72 bắn
cháy chiếc trực thăng lâm nạn để khỏi lọt
vào tay địch quân.
Cuộc rút lui
trong vội vă, dưới hỏa lực của địch
buộc ḷng các quân nhân Hoa Kỳ phải bỏ lại xác chết
đồng đội. Trong đó có y tá Thomas Perry, người
vừa mới đến buổi sáng hôm đó để
chăm sóc thương binh. TQLC/HK lập một
toán gồm 11 binh sĩ đi t́m thi hài của đồng
đội (Perry). Trong khi đó LLĐB Việt-Mỹ,
Úc phân tán ra từng toán nhỏ len lỏi, thoát qua đưuợc
ṿng vây củ lính Bắc Việt. Năm tiếng đồng
hồ sau khi quân đội Bắc Việt tràn ngập Ngok
Tavak, hầu hết các quân nhân LLĐB được trực
thăng cấp cứu đi t́m, cứu thoát, kéo lên từ
trong rừng sâu. Mười
một binh sĩ TQLC Hoa Kỳ cùng với y tá Thomas Perry,
không một ai trở về, họ bị coi như mất
tích cho đến ngày nay.
Khi chiếc C-130 cất cánh từ
phi trường Tân Sơn Nhất, chở theo
toán “điều không” đến không phận trại
LLĐB Khâm Đức, ba quân nhân thuộc Không Lực Hoa Kỳ
cảm thấy thích thú. Họ đă từng đến Khâm
Đức trước đó và cho rằng khung cảnh
đồi núi trong khu vực thật hùng vĩ...
thật yên b́nh. Phi đạo Khâm Đức
cũng thuộc loại tốt nhất, được
công binh Hoa Kỳ xây thật chắc chắn. Cả ba
người vẫn cứ tưởng rằng đến
Khâm Đức để xắp xếp, điều động
mấy chiếc phi cơ vận tải đem đồ tiếp
tế đến cho trại LLĐB... Như
một chuyến đi dạo trong công viên.
Giấc mơ của
ba người biến mất khi chiếc C-130 đáp xuống.
Phi đạo Khâm Đức không c̣n tốt như xưa nữa,
cả ba người lo đem đồ nghề xuống gấp
rút, xe Jeep cùng với một pḥng nhỏ
(trailer) để họ làm việc, dưới tiếng
đạn pháo kích của địch. Chưa đầy một
phút sau, một viên đạn súng cối nổ tung, làm hư hại cái trailer của họ.
Cả ba người nhẩy vội lên chiếc xe Jeep, chạy đến gần một giao
thông hào pḥng thủ. Địch quân vẫn
pháo kích, Lundie và Freedman dựng cột antena lên để
liên lạc với các phi cơ vận tải C-130 đang
trên đường đến.
Trung sĩ Lundie
chạy trở lại cái trailer đă bị hư hại lấy
b́nh điện để chạy máy truyền tin.
Trong lúc hối hả, tháo rỡ b́nh điện, Lundie bị
gẫy tay, được một y tá LLĐB băng bó và
khuyên anh ta nên đón chuyến C-130 sắp đến về
Cam Ranh nhưng Lundie từ chối, ở lại với bạn.
Rồi các chiếc vận tải
cơ C-130 đến đổ xuống Khâm Đức một
tiểu đoàn thuộc lữ đoàn 196 Bộ Binh Nhẹ
cùng với súng đạn, đồ tiếp vận của
họ. Tiểu đoàn Bộ Binh Hoa Kỳ vào
vị trí pḥng thủ xung quanh phi đạo, những cao
điêm trong khu vực Khâm Đức ngay tức khắc.
Toán “điều không” đă hoàn thành nhiệm vụ,
hướng dẫn tất cả mười một chuyến
C-130 đáp xuống phi đạo Khâm Đức, dưới
tiếng đạn pháo kích của địch.
Đêm hôm đó (11 tháng Năm
1968), các tiền đồn bên ngoài trại LLĐB Khâm Đức
đều báo cáo quân đội Bắc Việt đưa một
đơn vị cấp lớn vào bao vây căn cứ. Các
tiền đồn này sau đó mất liên lạc và đến
sáng hôm sau, lệnh di tản được ban hành.
DI TẢN TRẠI LLĐB KHÂM ĐỨC
Từ mấy năm qua, trại
LLĐB Khâm Đức là một căn cứ thâu thập
tin tức t́nh báo về các cuộc chuyển quân của quân
đội Bắc Việt trên hệ thống đường
ṃn HCM. Đơn vị Nghiên Cứu Quan Sát (SOG – NKT) cũng
xử dụng trại LLĐB này làm căn cứ hành quân tiền
phương (FOB) cho những toán biệt kích xâm nhập vào
đất Lào, ḍ thám, đánh phá các binh trạm, cơ sở
hậu cần của địch. Trong mùa Xuân
năm 1968, quân đội Bắc Việt đă quyết
định thanh toán trại LLĐB biên pḥng này. Vào
đầu tháng Năm, t́nh báo quân lực Đồng Minh
được biết quân đội Bắc Việt
đă đưa vào khu vực núi non xung quanh căn cứ
nhiều đơn vị cấp lớn.
Ngày 10 tháng Năm, trại
LLĐB Khâm Đức được quân của lữ
đoàn 196 Bộ Binh Nhẹ, không vận từ căn cứ
Chu Lai lên tăng cường. Ngày hôm sau, một
tiền đồn trên núi Ngok Tavak bị tấn công.
Đến buổi tối, đại tướng
Westmoreland cho rằng trại LLĐB Khân Đức không
đủ sức chống lại trước áp lực của
địch quân và không muốn căn cứ bị tràn ngập
nên ra lệnh di tản khỏi căn cứ bắt đầu
từ buổi sáng ngày hôm sau.
Trong kế hoạch,
cuộc di tản sẽ xử dụng trực thăng, nhưng
khi đoàn trực thăng vừa đến trại, tiếng
súng địch nổ khắp nơi, bắn rơi một
trực thăng, chương tŕnh di tản phải tạm
ngưng. Trong ṿng vài tiếng đồng
kế tiếp, binh sĩ dân sự chiến đấu trong
trại hoang mang, sẽ được di tản, hoặc
không. Buổi sáng hôm đó, một vận tải cơ
C-130 thuộc phi đoàn 21 Không Vận Chiến Thuật do
trung tá Darel D. Cole cùng với phi hành đoàn bay lên traị
LLĐB Khâm Đức, tiếp tế một kiện hàng lớn,
dường như ông ta cùng với phi hành đoàn, căn cứ
đang chuẩn bị di tản. Chiếc máy bay vừa ngừng
trên phi đạo, một đám thường dân Việt
Những người
Việt
Trận đánh sơ khởi
buổi sáng hôm đó, chỉ xẩy ra xung quanh phi đạo
trại LLĐB Khâm Đức. Đă có vài phi cơ, trực
thăng bị hỏa lực pḥng không của địch bắn
rơi, trong đó có máy bay quan sát O-2, viên phi công đáp chiếc
máy bay trúng đạn đáp xuống phi đạo an toàn. Qua buổi chiều tướng Westmoreland thông báo
cho Đệ Thất Không Lực Hoa Kỳ bắt đầu
cuộc di tản bằng vận tải cơ cỡ lớn
C-130.
Chiếc C-130 đầu tiên
đáp xuống trại LLĐB để di tản dân sự
chiến đấu do thiếu tá Bernard Bucher thuộc phi
đoàn 774 Không Vận Chiến Thuật. Thiếu
tá Bucher đem được lên phi cơ hơn 200 người
Việt
Các phi tuần phản
lực được điều động lên đánh
xung quanh phi đạo, để cuộc di tản được
tiếp tục. Kết qủa chiếc thứ tư
đáp xuống, đón người và cất cánh an toàn. Ba chiếc xuống tiếp theo cũng thành công, bay về an toàn.
Trong khi các vận tải cơ
C-130 lên xuống di tản thường dân, dân sự chiến
đấu ra khỏi trại LLĐB Khâm Đức, các trực
thăng Lục Quân và TQLC Hoa Kỳ lợi dụng định
chỉ lo bắn các phi cơ vận tải, đă vào “bốc”
những quân nhân Hoa Kỳ cùng quân binh chủng với họ.
Chỉ trong ṿng ít phút, khoảng 500 người
đă được di tản. Khi chiếc C-130 cuối
cùng đem theo toán LLĐB/HK cố vấn
của trại LLĐB, một chiếc khác đem vào
căn cứ toán điều hành di tản, gồm ba quân
nhân mà trước đă được đem đi.
Cuối cùng LLĐB/HK báo cáo,
trại LLĐB đă được di tản với số
tổn thất hai vận tải cơ C-130, năm phi cơ
khác bao gồm trực thăng, phi cơ thám thính, tất cả
bẩy chiếc bị bắn rơi, phải bỏ lại.
Tuy nhiên, chuyện sắp tới sẽ là
điều đáng ghi nhớ nhất trong cuộc di tản
trại LLĐB Khâm Đức.
Chiếc C-130 thứ
tám đưa ba quân nhân Hoa Kỳ đáp xuống trại
LLĐB, để làm nhiệm vụ điều hành cuộc
di tản. Đó là thiếu tá John Gallagher, một phi
công lái C-130 trong phi đoàn 463 Không Vận Chiến Thuật,
và hai trung sĩ Mort Freedman, James Lundie. Cả ba
người chạy thật nhanh
ra khỏi phi cơ vào trong trại LLĐB. Trung
tá Jay Van Cleef lái chiếc C-130 đưa họ vào chờ vài
phút vẫn không thấy ai trở ra, ông ta cất cánh bay về
căn cứ không quân.
Trong khi đang lấy
cao độ, trung tá Van Cleef nghe trên hệ thống vô tuyến
rằng, trại LLĐB đă hoàn tất việc di tản.
Ông ta trả lời “Không đúng”, v́ c̣n ba quân nhân Hoa Kỳ
trong căn cứ. Sau này, ba quân nhân Hoa Kỳ trở về
khai rằng, tiếp theo đó là một
chuỗi im lặng vô tuyến.
Chiếc phi cơ kế tiếp,
theo thứ tự sẽ bay vào trại
LLĐB Khâm Đức là một chiếc C-123 do trung tá Alfred
Jeanotte. Ông ta đáp xuống, rồi lại cất
cánh v́ không thấy có người chạy ra trên phi đạo.
Phi hành đoàn trên máy bay, nh́n thấy ba quân nhân Hoa Kỳ
đang ẩn nấp dưới một chiến hào, nhưng
phi cơ thiếu nhiên liệu nên không thể đáp xuống
trại LLĐB lần nữa. Cứu ba quân nhân Hoa Kỳ
này là do công của chiếc C-123 kế tiếp, do trung tá Joe
M. Jackson lái, phi công phụ là thiếu tá Jesse Campbell, một phi công trong phi đoàn Cảm Tử
(Air Commando) 315. Với chiến tích này, trung tá
Trung tá
Trong khi tất cả báo cáo
đều tập trung vào chuyến bay C-123 cuối cùng,
đem về được ba quân nhân Hoa Kỳ, và cuộc
di tản đă hoàn tất tốt đẹp. Trên thực tế,
chỉ độ một nửa (500) trong số 1000 quân
nhân, dân sự chiến đấu trong trại LLĐB được
các phi cơ vận tải Hoa Kỳ di tản. Số kẹt lại đă phải phân tán ra thành
nhiều toán nhỏ, lẩn tránh trong rừng, thoát ra khỏi
ṿng vây của quân đội Bắc Việt. Trong số
đó, chỉ một số ít người may mắn được
trực thăng t́m thấy “bốc” đem về (tạm
thời trong một căn cứ thuộc LLĐB).
Ngoài ra, c̣n một số binh
sĩ thuộc lữ đoàn 196 Bộ Binh Nhẹ đang nằm
bảo vệ các cao điểm xung quanh căn cứ
cũng bị kẹt lại cùng với LLĐB/VN và dân sự
chiến đấu. Khoảng mười hai
quân nhân Hoa Kỳ thuộc lữ đoàn này sống sót,
được trực thăng cứu thoát khi lẩn trốn
trong rừng. Một số tử trận
và một người bị bắt. Binh sĩ bị
địch bắt, đưa ra ngoài bắc và được
trả tự do năm 1973 trong đợt trao trả tù binh
“Home Coming”.
Tổn thất trong cuộc
di tản trại LLĐB Khâm Đức ngày 12 tháng Năm
1968: 259 thường dân chết (người Thượng),
thêm khoảng hơn 100 người chết trong chiếc
phi cơ C-130 bị rơi, 25 quân nhân Hoa Kỳ tử trận,
LLĐB/VN không thấy nói tới, 2 trực thăng CH-47
Chinook (AC-475, 469), 2 trực thăng CH-46 của TQLC/HK, 2 vận
tải cơ C-130 của Không Quân, 1 trực thăng UH-1 Lục
Quân, và 1 máy bay quan sát O-2.
Chú
thích: Toán A-105 LLĐB/HK nhận bàn giao trại LLĐB Khâm
Đức từ liên đoàn 7 LLĐB/HK. Trại LLĐB
Khâm Đức nằm trong quận Hiệp Đức, tỉnh
Quảng Tín. Trước khi liên đoàn 5 LLĐB Hoa Kỳ
qua tham chiến tại Việt Nam, một toán A LLĐB thuộc
liên đoàn 1 LLĐB/HK đến lập căn cứ nơi
một đồn binh cũ của người Pháp để
lại, cũng trong khu vực. Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát
(MACV-SOG, NKT/TTM) đến Khâm Đức lập một
căn cứ hành quân tiền phương (FOB) cho các toán biệt
kích SOG/Lôi Hổ xâm nhập vào khu vực miền nam nước
Lào, v́ trại LLĐB Khâm Đức gần biên giới
Lào-Việt. Sau đó, đơn vị MACV-SOG dời căn
cứ hành quân tiền phương đi Hớn Quản
(B-33) ngày 25 tháng Sáu năm 1965. Một toán A
trong chương tŕnh Gamma (B-57, tuyển mộ điệp
viên nằm vùng) đến trại LLĐB Khâm Đức
làm việc trong khoảng giữa năm 1967. Trại
LLĐB Khâm Đức c̣n có một căn cứ hành quân tiền
phương trên núi Ngok Tavak, căn cứ này bị địch
tràn ngập một ngày trước khi căn cứ chính di
tản ngày 12 tháng Năm 1968. Trại LLĐB
di chuyển đến Nông Sơn ngày 1 tháng Sáu năm 1968.
Đến ngày 31 tháng Mười năm 1970, trại
LLĐB Nông Sơn chuyển giao cho Biệt Động Quân
và trở thành tiểu đoàn 78 BĐQ Biên Pḥng.
vđh