ĐƯỜNG VỀ QUÁ XA
Bài viết này để tưởng nhớ đến
Walter E. Demsey cùng với phi hành đoàn:
George Berg, Gerald Woods, Gary Johnson, Ronald Watson và Allen
Lloyd
CHUYỆN XẨY RA
Câu chuyện bắt
đầu ngày 18 tháng Hai năm 1971. Phi hành đoàn trực
thăng (SOG) đang đóng quân chung với phi đoàn
Comencheros (trực thuộc sư đoàn 101 ND) trong căn cứ
Eagle của sư đoàn 101 Nhẩy Dù Hoa Kỳ. Phi hành
đoàn hôm đó gồm có: phi công George Berg, phi công phụ
Gerald Woods, cơ khí trưởng Walter Demsey và xạ thủ
đại liên Gary Johnson.
Hôm đó, chiếc trực
thăng UH-1H phát xuất từ căn cứ hành quân tiền
phương của đơn vị SOG ở Phú Bài, bay
đi “bốc” một toán biệt kích hoạt động ở
phiá bên kia biên giới Lào Việt. Toán biệt
kích xâm nhập để ḍ thám, lấy tin tức về các
hoạt động của quân đội Bắc Việt
trên đường ṃn HCM. Đang ḍ thám con đường,
họ trông thấy một người lính Bắc Việt
đang đạp xe, chở giấy tờ,
tài liệu nên nổ súng giết người lính để
lấy cặp tài liệu.
Tiếng súng làm cho đơn
vị Bắc Việt trong khu vực báo động và truy
kích toán biệt kích. Toán biệt kích gọi máy
yêu cầu triệt xuất khẩn cấp. Bốn trực thăng bay vào, cứu được
mấy người đem về Phú Bài, nhưng vẫn c̣n
ba biệt kích quân đang lẩn trốn trong khu vực.
Chiếc trực thăng của bạn tôi quyết định
bay vào “bốc” chuyến chót, để cứu những biệt
kích quân c̣n kẹt dưới đất.
Trời đă xâm xẩm tối,
những tia nắng cuối cùng trong ngày
từ từ tan biến đi và thời tiết trở nên
xấu, nhiều đám mây ở đâu kéo đến. Chiếc trực thăng hạ thấp cao độ,
bay vào một triền núi nơi hướng đông thung
lũng A Shau, trên đất Lào. Ba quân nhân LLĐB/HK
trong toán biệt kích đơn vị SOG c̣n kẹt trong ḷng
địch gồm có: Ronald Watson, Allen Lloyd, và Sam Hernandez. V́
địch quân đuổi theo sát nút, trực
thăng thả dây cấp cứu McGuire xuống cho ba quân
nhân Hoa Kỳ ngồi vào, rồi bốc lên cao trước
những loạt đạn tiểu liên AK-47.
Chiếc trực thăng bị
trúng nhiều đạn AK-47, cố bay trở về phần
đất Việt rồi đâm vào sườn núi
hướng đông bao bọc thung lũng. Chiếc trực
thăng bốc cháy, trong khi đó, Sam Hernandez rơi xuống
đất nhưng may mắn không bị gẫy chân,
cũng chưa biết chiếc trực thăng đă bị
rơi và bốc cháy. Anh ta t́m chỗ trú ẩn
qua đêm rồi sẽ xử dụng khả năng mưu
sinh thoát hiểm ngày hôm sau.
CHUYẾN ĐI T̀M
NĂM 1971
Ngày hôm sau, 19 tháng Hai năm
1971, căn cứ hành quân tiền phương Phú Bài, thuộc
bộ chỉ huy Bắc (CCN) đưa một toán cấp cứu
vào khu vực hành quân để t́m ba biệt kích Hoa Kỳ
cùng phi hành đoàn chiếc trực thăng lâm nạn. Toán biệt kích “Bright Light” (chuyên đi cấp cứu)
được đưa đến gần vị trí chiếc
trực thăng rơi, họ t́m được Sam
Hernandez. Anh ta là người may mắn, vẫn c̣n giữ
cặp tài liệu lấy được của địch
ngày hôm trước, được trực thăng đến
đón, đưa về Phú Bài trước.
Toán biệt kích t́m ra chiếc trực thăng bị
rơi trên một sườn núi, cách đỉnh núi khoảng
600 thước và đă bị cháy, hư hại hoàn toàn.
Tất cả mọi người đều tử nạn,
hai phi công Berg và Woods vẫn ngồi trên ghế, dây đai giữ xác họ chặt vào thành ghế.
Xác của Johnson vắt trên một cành cây, cách
chỗ trực thăng rơi khoảng 30 bộ. Chân
của Demsey bị đứt, có lẽ anh ta bị bắn
tung ra, rồi chiếc trực thăng,
lăn đè lên.
Toán biệt kích
“Bright Light” gói xác các nhân nhân vào trong túi đựng xác, để
trên xác chiếc trực thăng. Nhưng
vấn đề thời tiết thay đổi bất thường,
trời tối xầm lại bị những đám mây
đen che phủ, trực thăng không vào được,
để đem xác các nạn nhân về. Toán biệt kích tiếp tục di chuyển lên hướng
tây bắc (c̣n hai biệt kích nữa), lên đỉnh một
sườn núi. Khi băng qua một
vách núi dựng đứng, họ trông thấy sợi dây cấp
cứu McGuire, với xác của Watson và Lloyd treo lủng lẳng
ở dưới (hai quân nhân biệt kích bị đập
vào vách núi).
Toán biệt kích tiếp tục
di chuyển theo hướng tây bắc
đến đồi 1528 để đóng quân qua đêm. Sáng hôm sau, toán biệt kích đang chuẩn bị
quay trở lại chỗ chiếc trực thăng lâm nạn
th́ bị địch quân tấn công. Toán
biệt kích bị thương hai người và phi cơ
thám thính Covey rơi, viên phi công Larry Hull tử nạn. Toán biệt kích “Bright Light” được trực
thăng vào cứu thoát, và phải bỏ lại tất cả
những túi chứa xác đồng đội. Sau đó, cấp chỉ huy ở trên cao, không muốn
bị tổn thất thêm, ra lệnh ngưng việc thâu hồi
tử thi. Ba quân nhân LLĐB/HK trong nhóm biệt kích
“Bright Light” đó là: Charles Westley, Cliff Newman, và Charles Danzer.
CÚ
ĐIỆN THOẠI
Ngày 25 tháng Mười
năm 1991, mẹ tôi gọi điện thoại báo tin, nhận
được điện thoại của một người
đàn ông tên là Wayne Jones. Ông ta giới thiệu
là bạn của anh tôi Walt (Walter Demsey) cho đến khoảng
hai tuần lễ trước khi anh tôi tử trận.
Ngay buổi tối
hôm đó, tôi gọi điện thoại cho
Sau khi nói chuyện
với
CUỘC HÀNH TR̀NH KẾT
THÚC
Wayne sống ở Virginia, tôi ở
New Jersey, chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên trong thành
phố New York, và được Bob Clewell, cấp chỉ
huy cũ của anh tôi đón tiếp, chúc chúng tôi lên đường
may mắn. Chuyến máy bay của hăng hàng không Korea, cất
cánh từ New York, bay lên Anchorage, Alaska lấy thêm nhiên liệu
rồi bay đến Seoul, Korea. Chúng tôi nghỉ đêm ở
HÀ NỘI
Chưa từng
ra khỏi Hoa Kỳ, tôi ngỡ ngàng trước nền
văn hóa khác biệt, khi bước ra khỏi phi cơ.
Khung cảnh như đi ngược gịng thời
gian. Chúng tôi được nhân viên sứ
quán, ông Ngọc đón và tháp tùng suốt cuộc hành tŕnh ở
Việt đường
đầy những chiếc xe Honda, di
chuyển không ngừng.
Khách sạn nơi chúng tôi cư
ngụ tên là Bắc
Việc kế tiếp là ăn uống, chúng tôi không tính sao, mua hai thùng
đồ ăn làm sẵn (khô). Có lẽ v́
đói, nên cả hai cảm thấy ngon quá. Chúng tôi đi thăm viện bảo tàng Chiến
Tranh, chẳng có ǵ hay. Sau đó chúng tôi được
vị Tổng Trưởng Ngoại Giao đón tiếp, ông
ta chúc chúng tôi may mắn trong thời gian ở Việt
Ngày hôm sau, chúng tôi lên phi cơ
của hăng hàng không Việt Nam đi Đà Nẵng, tôi cảm
thấy thích thú đặt chân xuống thành phố Đà Nẵng.
Một xe van đưa chúng tôi đi ngang qua Ngũ Hoành Sơn,
băi biển “China beach”, một trong nhũng băi biển đẹp
nhất thế giới, rồi tiếp tục đi lên hướng
bắc đến thành phố Huế.
THÀNH PHỐ HUẾ
Ra đến Huế,
chúng tôi được đưa đi thăm thành phố,
kinh thành xưa rất cổ kính và rất đẹp.
Sau đó được du ngoạn trên gịng
sông Hương cùng với ông thị trưởng thành phố.
Chuyến du hành bằng thuyền khoảng hai
tiếng đồng hồ, ghé thăm một ngôi chùa, có nhiều
người đi hành hương. Chúng tôi ngủ lại
Huế để sáng hôm sau vào thung lũng A Shau.
CON ĐƯỜNG ĐI VÀO
ĐIẠ NGỤC
Con đường đi vào
thung lũng A Shau, bị hư hại nhiều, chỉ có một
đoạn tráng nhựa, sau đó là đất đỏ.
Con đường uốn quanh theo núi, gồ
ghề không bằng phẳng đi vào thung lũng. Cả một
vùng rừng núi bị chất độc da cam (agent orange) tàn phá, cây cối xác xơ, nhiều
đám cỏ tranh cháy đâu đó, bốc mùi khét. Con đường
bị ngăn lại giữa đường đến A
Lưới (Aloui), xe ủi đất
đang ra sức sửa chữa đoạn đường.
Người tài xế xin tôi ba điếu thuốc lá để
cho mấy người đàn ông đang làm đường...
Và họ tránh đường cho chiếc xe
van chở chúng tôi đi qua...
A LƯỚI (ALOUI)
Chúng tôi đến A Lưới
vào xế chiều, phải ngủ lại qua đêm trong một
căn nhà lớn (building). Điạ điểm này cũng
là nơi phát xuất cho toán t́m kiếm quân nhân mất tích
(MIA) Việt-Mỹ. Người hướng dẫn cho
chúng tôi là một đại úy quân đội Hoa Kỳ. Buổi
tối “khách sạn” có máy phát điện do người Hoa
Kỳ cung cấp.
ĐẾN CHỖ PHI CƠ
LÂM NẠN
Bẩy giờ sáng hôm sau,
Chúng tôi đậu xe, nơi hướng đông phi đạo, vách
núi hướng tây của thung lũng A Shau nằm bên phải.
Người Việt
Đi theo
con đường ṃn quanh co khoảng hơn nửa dặm,
chúng tôi đến một gịng suối khác, nước lên
đến bụng và đầy những con đỉa. Đoàn người phải lội dưới
gịng suối thêm nửa dặm nữa mới lên bờ.
Tôi đă được người Hoa Kỳ căn dặn
trước, xịt thuốc chống đỉa nên không
sao, mấy người Việt
Sau đó chúng tôi bắt đầu
leo dốc lên một rẵng núi nhỏ,
đâm ra từ rặng núi lớn, những rặng núi nhỏ
nh́n từ xa trông như những ngón tay. Rừng núi rất
rậm rạp, chỉ nh́n rơ khoảng vài bộ, làm tôi
băn khoăn, trong thời chiến tranh, làm sao những
quân nhân Hoa Kỳ trông thấy được địch
quân đang nằm phục kích chỉ cách họ vài bộ. Đó cũng là điều đáng xấu hổ cho
nhiều người Hoa Kỳ
không hiểu rơ những ǵ, người lính Hoa Kỳ
đang phải đối phó trước đây.
Chúng tôi ra khỏi
khu rừng rậm rạp, đến một chỗ có nhiều
cây cao, và đường lên dốc cao hơn, có nhiều chỗ
dốc tới 60 độ. Đi được
3/4 đoạn đường, tôi đứng thở dốc,
không biết ḿnh đủ sức khỏe đi đến
nơi, đến chốn không? Mấy người
Việt
Theo trên bản đồ, vị
trí chiếc trực thăng bị rơi cách đó khoảng
1000 bộ, nằm trên sườn núi cần đem theo dụng cụ leo núi. Người
lính biên pḥng Việt
Tại chỗ chiếc phản
lực A4 rơi, chúng tôi làm lễ cầu nguyện cho người
phi công kém may mắn. Nhóm t́m kiếm quân nhân mất tích Hoa Kỳ
đă chuẩn bị trước, đem theo
một lá cờ Hoa Kỳ nhỏ, đó cũng là tất cả
những điều chúng tôi có thể làm được, kể
cũng an ủi cho người đă khuất. Chúng tôi đặt tấm bảng có tên người
phi công, lá cờ Hoa Kỳ trên một tảng đá, rồi
bắt đầu đọc những lời cầu nguyện,
gọi tên họ. Nước mắt tôi chẩy dài, mặc
dầu không phải anh tôi, mấy người Việt
TRỞ VỀ A LƯỚI
Mấy người Việt
Chúng tôi dọn dẹp,
rồi quay trở về. Đường về, xuống
dốc vẫn đỡ mệt hơn lúc leo
núi, những dốc cao chúng tôi phải vịn những cành
cây hai bên như thắng xe. Khi xuống tới
chân núi, chúng tôi đến một ngôi làng nhỏ trong vùng A
Shau. Chúng tôi đi ngang qua những cḥi nhỏ của
nông gia, những con trâu đang kéo cầy trên đồng. Sau đó đi ngược lên hướng bắc
trở lại A Lưới.
TOÁN T̀M KIẾM VIỆT-MỸ
Trước khi
trở về Huế, tôi ngồi nghĩ lại những
chuyện đă xẩy ra trong ngày. Tôi không biết nói
ǵ hơn để cám ơn cả hai toán t́m kiếm quân
nhân mất tích Việt-Mỹ. Không có họ chắc tôi chẳng
bao giờ có được kinh nghiệm những ǵ ḿnh mới
trải qua, những ǵ mà người lính Hoa Kỳ, cũng
như anh tôi đă phải trực diện, để làm
nhiệm vụ của người lính. Xin cảm
ơn, tôi sẽ ghi nhớ măi.
Theo
tài liệu: http://www.vietvet.org/longjour.htm
vđh