CÂU CHUYỆN ĐINH NIT
Tên của tôi là
Maureen Robinson. Tôi là một Đại Úy trong Đoàn Y Tá, bệnh
viện Giải Phẫu 27 trong căn cứ Chu Lai, từ
tháng Tư 1970 đến tháng Năm 1971 và bệnh viện
Chuyển Tiếp 91 từ tháng Năm đến tháng Chín
năm 1971. Trang Web này dành riêng cho con trai của tôi Đinh
Nit (Mark), một người thuộc sắc dân Hré và cho tất
cả người Thượng ở khắp nơi
đang tiếp tục tranh đấu cho những quyền
tự do căn bản của con người mà họ không
được hưởng. Và đặc biệt cho Trung
Úy Steve Thayer đă giúp đỡ chúng tôi vượt qua những
khó khăn và những chiến sĩ Lực Lượng
Đặc Biệt đă không quên những người bạn
đồng minh trung thành. Cầu xin Thượng Đế
ban phước lành cho tất cả mọi người.
Tôi hy vọng khi kể ra câu chuyện này,
ai đó sẽ nhớ lại câu chuyện, cung cấp thêm sự
kiện để cấu tạo lại câu chuyện về
ba năm đầu cuộc đời của con trai tôi. Tất
cả những câu chuyện về người Hré, khu vực
xung quanh (trại LLĐB) Trà Bồng đều được
trận trọng.
Đó là lần
phục phụ thứ hai của tôi ở Việt Nam. Lần
trước 1966-1967, tôi phục vụ nơi bệnh viện
Chuyển Tiếp 24 trong căn cứ Long B́nh. Đến
đầu năm 1968, tôi trở về Hoa Kỳ và thuyên
chuyển đến làm việc trong bệnh viện Walter
Reed (Tổng Y Viện của Quân Đội Hoa Kỳ) ở
thủ đô Washington DC. Tôi phục vụ trong ngành Xương,
Bắp Thịt (Orthopedics) mà phần lớn bệnh nhân là
thương binh được đưa về từ chiến
trường Việt Nam. Tôi không bao giờ quên thời gian
phục vụ trong bệnh viện đó và đến cuối
năm 1969, tôi chuẩn bị quay trở lại Việt
Nam. Lần trở về này tôi dự định qua Việt
Nam như một thường dân làm việc cho một hội
Từ Thiện Công Giáo hoặc trong một bệnh viện
Chỉnh H́nh trong thành phố Saigon. Rồi Quân Đội
Hoa Kỳ đến mời tôi phục vụ thêm mười
ba tháng mà không từ chối được. Đến
tháng Tư 1970, tôi lên đường.
Tôi được trao nhiệm vụ trong pḥng cấp cứu,
nhưng có lẽ do định mệnh, nhóm chúng tôi chăm
sóc cho thường dân và quân nhân VNCH. Mới đầu chỉ
là công việc tạm thời, nhưng sau đó tôi xin làm việc
thựờng xuyên trong ban này.
Bệnh nhân
đưa đến cho chúng tôi gồm đủ loại,
từ trẻ em sinh thiếu tháng cho đến người
già yếu. Chúng tôi chăm sóc nạn nhân chiến tranh, cụt
tay, chân, gẫy xương, cháy, những vết thương
do vũ khí, ḿn, gây ra... Chúng tôi cũng lo luôn những căn
bệnh vùng nhiệt đới, nhiều nhất là sốt
rét, thương hàn, sốt vàng da, xuất huyết v.v... Những
trường hợp trẻ em thiếu dinh dưỡng nữa...
đôi khi... ngoài khả năng của chúng tôi.
Tất cả
nhân viên, y tá chúng tôi đă cố gắng tận lực
để khắc phục những điều kiện khó
khăn. Tôi không thể kể hết ra, nữ Đại
Úy Grace Squires là người y tá trưởng rất tận
tâm chăm sóc bệnh nhân. Nữ Trung Úy Lucy Linenweber (Mẹ
đỡ đầu của Đinh Nit), nữ Trung Úy Jayne
Slagel, và nữ Trung Úy Barbara Watson là những “bà mẹ thứ
hai” cho các trẻ em. Những nam quân nhân trong nhóm chúng tôi gồm
có: Trung Sĩ Seones, Julio Acosta, Ed Dees, David Kohout, Chuck Morris, và
Eddie Reed đều là những người “thượng hạng”.
Ngoài ra có thêm ba nữ trợ tá người Việt, Lê, Mai
và Tâm, cũng là một phần trong nhóm chúng tôi. Có nhiều
kỷ niệm buồn, vui, tốt, xấu lẫn lộn,
và tôi sẽ không bao giờ quên được những bạn
đồng nghiệp trong nhóm 5 và 6.
Thời gian trôi
qua, chúng tôi vẫn bận rộn với công việc hàng
ngày. Chúng tôi cũng được cho biết, cường
độ chiến tranh gia tăng. Rồi đến đầu
tháng Mười Một, dẫy nhà làm pḥng ngủ cho nhân
viên y tá bị lửa thiêu rụi, chúng tôi phải dọn tới
ở tạm trong một nhà kho bỏ trống. Lúc đó
chúng tôi đă mất tất cả (đồ đạc
đem theo). Mấy nam quân nhân trong nhóm cố gắng xông vào
đám cháy để ”vớt vát” ít đồ đạc cho
đám nữ y tá, nhưng tôi chỉ thấy đôi giầy
nhà binh của tôi đă bị cháy xém quăng ra ngoài... Kết
qủa trong vài ngày kế tiếp, tôi đi đôi dép cao su
(Made in Vietnam) đi làm và bộ quần áo nhà binh mới phát
rộng thùng th́nh như bộ quần áo ngủ làm tôi phải
thắt dây lưng quần thật chặt, nếu không...
cái quần sẽ tụt xuống. Y tá trong bệnh viện
91 gửi qua “an ủi” chúng tôi ít đồ đạc, quần
áo (có lẽ dân sự, đem theo từ Hoa Kỳ). Điều
tôi tiếc nhất là thùng quần áo trẻ em mà tôi đă
xin được từ những cơ quan từ thiện...
Khoảng một
tuần lễ sau, nhiệm vụ cho nhóm chúng tôi đến
một khúc quanh, như định mệnh... Tôi nhớ
đó là đêm 8 tháng Mười Một năm 1970, tôi bước
vào bệnh xá, trông thấy “bệnh nhân” của tôi. Hồ sơ
đứa bé cho biết, nó được ba tuổi và
được trực thăng tản thương Hoa Kỳ
đem về từ quận Trà Bồng. Tên đứa bé là
Đinh Nit và nó bị suy dinh dưỡng rất trầm trọng,
bị nhiễm trùng nhiều chỗ trên cơ thể. Bụng đứa
bé trương lên v́ sán lải, thiếu sinh tố, các cơ,
bắp thịt yếu, đi tiêu khó khăn và chỉ cân nặng
hơn 8 kí lô (18 pounds). Có thêm một em trai 15 tuổi người
Hré đi theo, xưng là anh của Đinh
Nít, cũng yếu đuối, như đứa trẻ 12
tuổi. Tôi nhớ, nó mặc bộ quần áo biệt kích
(đồ bệt) trang bị cho các Dân Sự Chiến
Đấu người Thượng. Khoảng hai ngày sau,
đứa bé DSCĐ biến mất, tôi hỏi thăm
được biết nó phải quay trở về trại
LLĐB, và từ đó tôi không c̣n gặp anh của Đinh
Nit nữa.
Những tuần lễ tiếp theo,
sức khỏe Đinh Nit tiến triển thấy rơ, nó lên
cân, những
vết thương ngoài da, làm độc đă phản ứng
với thuốc men bớt dần đi. Nó bắt đầu
học nói tiếng Anh và tiếng Việt, và tôi càng ngày càng
gắn bó với “chú nhóc” này... Tôi không nhớ rơ, ḿnh có quyết
định “nhận nó làm con nuôi – adopt) từ lúc nào, tôi chỉ
nhớ khi hỏi Đinh Nit có muốn làm con nuôi và theo tôi về Mỹ không?
Thời gian trôi qua
nhanh, tôi phải trở về Hoa Kỳ trong tháng Tư
năm 1971.
Tôi xin gia hạn và “câu giờ” với chiến
thuật “một bước tiến, mười bước
lùi” và câu chuyện của “mẹ con” tôi kéo dài thêm được
chín tháng. Tiếp theo, tôi may mắn
gặp Trung Úy Steve Thayer, qua Việt
Ngày trở về Hoa Kỳ của
tôi đă gần kề mà vẫn chưa nhận được
giấy tờ chấp thuận xin con nuôi. Mỗi lần
Đại Tá Fore chỉ huy trưởng ngành Trợ-Y nhắc
nhở chuyện giấy tờ trở về Hoa Kỳ, tôi
nói bừa... sẽ có ngay! Rồi cứ tảng lờ, theo “kế hoạch A” tiếp tục đi
làm hàng ngày, c̣n “kế hoạch B”... chưa biết tính sao? Đúng ngày tôi phải lên đường trở về
Hoa Kỳ, tôi vẫn đi làm như thường lệ, nhưng
được lệnh vào gặp Đại Tá Fore. Đó là những bước chân dài nhất, dài lê
thê trong đời tôi. Trên đường đi, tôi vẫn
t́m cách để được ở lại, để cho
Đinh Nit không bị đưa vào trại dành cho trẻ em
mồ côi... (Cuộc đời tôi, có lẽ
đến đây là... chấm dứt!). Vị Đại
tá nh́n tôi rồi nói “Cô đă hết hạn làm việc từ
sáng nay”... Tôi hiểu “ḿnh đang vay mượn... thời
gian” và nếu t́nh thế không thay đổi, Nit sẽ bị
đưa đến một viện mồ côi...
Đúng
trong thời gian đó, địch quân gia tăng mức
độ hoạt động. Có đêm hải pháo từ chiến
hạm ngoài biển bắn vào rặng núi phiá trước mặt
căn cứ Chu Lai. Không hiểu sao, bệnh viện Giải
Phẫu 27 nằm ngay trước mặt bộ tư lệnh
sư đoàn 23 BB/HK (Americal), bên kia quốc lộ 1 là đồi
Pháo Binh đă được bàn giao cho quân đội VNCH.
Đúng đêm tôi đang trực, địch quân pháo kích vào
căn cứ Chu Lai, mặt đất rung chuyển. Nhóm y
tá chúng tôi vội vàng chạy vào bệnh viện, đưa
các bệnh nhân xuống dưới gầm giường, những
ai không di chuyển được, phải t́m đủ “mọi
thứ” che chở, chống mảnh đạn súng cối.
Đinh Nit và Đinh Dương đêm đó
ngủ tạm trong pḥng các cô y tá, đội đỡ nón sắt
của các cô. Địch quân bắn quấy
rối vài qủa rồi ngưng.
Tôi quay trở lại
Trà Bồng thêm vài chuyến nữa, xin giấy phép của vị
Quận Trưởng xin con nuôi. Tôi c̣n nhớ ngồi trên trực
thăng, bay dọc theo ḷng sông cạn vào
khu vực núi non. Tôi vẫn c̣n nhớ tất cả, trại
Lực Lượng Đặc Biệt, bộ chỉ huy quận
Trà Bồng, với những lỗ đạn trên tường
v́ đă có lần bị tấn công. Trong khu vực
có một thác nước nhỏ, những thửa ruộng
lúa với những con trâu cầy, và ngôi làng của người
Thượng.
Những lúc đi
lên Trà Bồng, tôi xử dụng thời gian được
nghỉ, và không xin phép ai cả... v́ đă biết trước
chẳng ai cho phép khi biết tôi đi vào khu vực nguy hiểm. Tôi được
nhắn tin, bế Đinh Nit vào quận Trà Bồng theo lệnh của ông Quân Trưởng... Tôi
hơi do dự, nhưng không c̣n cách nào khác.
Trong chuyến đi đem theo Đinh Nit, người Hré xếp hàng dài,
xem mặt Đinh Nit để nhận con cháu, họ hàng
đ̣i lại... Một người
đàn ông Thượng đóng khố, gác trên vai một chiếc
nỏ, đến xem, kéo áo Đinh Nit lên t́m dấu vết
đặc biệt, rồi nh́n tôi như thầm bảo “Cố
gắng lo cho đứa bé này”.
Một lần khác, v́ lư do thời tiết,
trực thăng không vào đón được, hai mẹ con
phải ngủ lại trong quận. Tôi vội vàng liên lạc
về bệnh viện nhờ Grace Squires
trực thay cho tôi. Đêm đó đại bác ở
đâu bắn suốt đêm không tài nào ngủ được,
Đinh Nit sợ qúa rơi khỏi giường. Kết
qủa tổn thất trận pháo kích là Đinh Nít bị một
con mắt tím bầm. Sáng hôm sau, một trực thăng tiếp
tế đạn bay vào đón hai mẹ con, bay đến một
căn cứ Pháo Binh Hoa Kỳ “tạm gửi”, rồi khoảng
nửa giờ sau đến đón đưa về căn
cứ Chu Lai. Lúc ngồi trong căn cứ, một trung
đội lính Hoa Kỳ vừa đi tuần khu rừng
xung quanh về. Trông họ ướt đẫm mồ hôi,
nhiều người cởi trần, phanh ngực áo... không
biết họ nghĩ ǵ khi đi ngang qua hai mẹ con “Việt
Mỹ” đang ngồi chờ trực thăng?
Sau nhiều chuyến đi Trà Bồng
vất vả, giấy tờ đă được chấp
thuận, chuyện kế tiếp là tiến hành thủ tục
“Xin Con Nuôi” theo luật pháp và giấy nhập cảnh Visa
vào Hoa Kỳ. Theo luật pháp Việt Nam, muốn xin con nuôi,
phải là người có gia đ́nh và ít nhất 30 tuổi.
Năm đó tôi mới 26 tuổi và c̣n độc thân... Viện nuôi trẻ em mồ côi An Thôn ngoài Đà Nẵng
lo tất cả các dịch vụ, thủ tục xin con nuôi
cho người Hoa Kỳ và Âu châu, và trường hợp của
tôi phải nhờ đến luật sư. Tôi t́m
được một nữ luật sư chuyên về thủ
tục xin con nuôi và bà ta nhận lời giúp tôi... Đó mới chỉ là bắt đầu.
Bệnh viện 27 đóng cửa (người
Hoa Kỳ rút quân), chúng tôi được bổ sung đi
các bệnh viện khác. Tôi được thuyên chuyển
đến bệnh viện 91 gần đó, việc đầu
tiên tôi được cho biết phải gửi bé Nit vào viện
mồ côi cho đến khi thủ tục hoàn tất. Tôi lại phải “van xin” cấp chỉ huy trường
hợp của tôi, và cuối cùng ông chỉ huy trưởng
đoàn y tá bệnh viện 91 thông cảm. Quá nhiều trở ngại, nhiều lần tôi đă
nghĩ... sẽ thất bại. Tôi cứ lo lắng,
nếu hồ sơ xin nhận con nuôi không thành công, họ sẽ
đưa Nit vào viện mồ côi.
Đến tháng Năm 1971, hai mẹ
con lại di chuyển đến nhiệm sở mới,
tôi được trao phó cho nhiệm vụ chăm sóc thường
dân và binh lính VNCH trong nhóm 4. Trong bệnh viện
c̣n có khu riêng biệt cho tù binh của địch bị bắt
và bị thương. Lúc đi làm, tôi đem Nit theo để nó chơi với đám trẻ
em khác. Bạn bè thương cảm cho tôi, những đêm
tôi phải trực, thường có một cô bạn y tá
trông nom Nit để tôi ngủ được ít giờ.
Nhóm 4 gồm có: nữ Đại Úy
Pat Barber, nữ Trung Úy Marion Thorton, cô này cũng xin một
đứa con nuôi 7 tuổi, bé trai Phan Trí (Tim) và Trung sĩ
Williams, Jim Wilson, Louis Molina, và Jack Litzmann. Tất cả đều
dễ thương, có tấm ḷng, tôi rất may mắn
được làm việc với họ. Đơn vị
này trước đó mất đi nữ
Tôi lại phải
xin gia hạn phục vụ thêm ba tháng... cứ tiếp tục
chiến thuật “Một bước tiến, mười
bước lùi”. Rồi một buổi sáng thứ Sáu, Steve
Thayer gọi điện thoại cho tôi, hỏi thăm... cảm
thấy thế nào khi làm mẹ? Tôi phản ứng hơi chậm
v́ qúa vui mừng... cám ơn Thượng Đế, cám ơn
bạn bè, tất cả những ai
đă giúp đỡ hai mẹ con tôi, cùng với lời cầu
nguyện. Đinh Nít đă được hợp thức
hóa là con tôi. Tôi vui sướng đặt tên Mỹ cho nó là
Mark Stephen và ngày sinh của nó trên giấy tờ là ngày 8 tháng
Mười Một, ngày Đinh Nit được trực
thăng đưa đến bệnh viện 27. Đinh Nit sẽ giữ tên Thượng của nó
khi lên 9 tuổi. Thủ tục xin Visa nhập
cảnh vào Hoa Kỳ là một vấn đề nữa, lúc
đó Steve Thayer cũng đă gần hết thời gian phục
vụ, sắp trở về Hoa Kỳ.
Trong
những ngày kế tiếp, hai mẹ con phải bay vào
Tôi vội vàng gọi
điện thoại cho luật sư, đang làm việc
trong viện mồ côi Catholic ở
Trời không phụ ḷng người...
Cuối cùng tôi được ṭa đại sứ
thông báo, đă có Visa cho Nit nhưng tôi phải vào
Đến cuối tháng Chín, mẹ
con tôi đă sẵn sàng lên đường. Cảm xúc buồn
vui lẫn lộn, quá nhiều chuyện xẩy ra trong 17
tháng qua, và tôi đă biết trước rằng... đây là
lần chia tay cuối cùng. Rất khó khăn khi phải nói
lên lời từ giă với những bạn bè thân thương
đă giúp đỡ tôi rất nhiều trong thời gian vừa
qua.
Chúng tôi từ giă bạn bè, bay đến
vịnh Cam Ranh. Tôi có thể trở về Hoa
Kỳ, nhưng trường hợp của Nit vẫn phải
cất cánh từ
Khi chúng tôi qua thủ
tục quan thuế, viên Trung Sĩ Không Quân thốt lên “Bà may
lắm, đứa bé chỉ c̣n một ngày là hết hạn
Visa”.
Viên cảnh sát người Việt nh́n hai mẹ con, nh́n
passport, nh́n tấm Visa... Chuyện khó khăn đă trở
thành sự thực, ông ta trả lại giấy tờ rồi
để cho hai mẹ con bước ra chỗ máy bay.
Bây giờ Mark đă trở nên một
người cha cho các con: Kathy, Stephen, và Jason. Mark gặp người
vợ Thái Lan tên Linh khi đang theo học
bậc đại học. Hiện tời,
Mark đang làm việc cho University of
Mark được nuôi dưỡng
và lớn lên ở
Maureen
Robinson
vđh