BIỆT KÍCH 34A
Ngày 26 tháng Mười Một
năm 1963, Tổng Thống Johnson tuyên bố sẽ tiếp
tục theo đuổi đường lối cứng rắn
của Tổng Thống Kennedy về các hoạt động
bí mật, kư thuận chương tŕnh NSAM273. Cho
phép gia tăng những hoạt động bí mật chống
lại miền bắc Việt
Với sự chấp thuận
này, Tổng Thống Johnson có ba mục đích: thứ nhất,
chính quyền Hà Nội phải chấm dứt các hoạt
động trong miền nam. Thứ hai, thực
hiện kế hoạch Tâm Lư Chiến, tuyên truyền người
dân miền bắc. Thứ ba, gia tăng
các hoạt động bán quân sự (tổ chức kháng chiến),
gây khó khăn cho quân đội, chính quyền miền bắc.
Và ông ta hy vọng chính quyền miền bắc sẽ cảm
thấy t́nh h́nh không được sáng sủa cho họ và
phải rút quân đội từ bên Lào và trong miền nam trở
về miền bắc.
Ngày 21 tháng Mười Hai, Tổng
Thống Johnson họp với bộ trưởng Quốc
Pḥng McNamara, giám đốc cơ quan Trung Ương T́nh Báo
CIA John McCone để bàn về Hành Quân (Chương Tŕnh)
34A. Họ quyết định thực hiện những hoạt
động bí mật, để đỡ bị tổn thất,
và tránh dư luận Quốc Tế. Ủy ban Krulak được
thành lập để xét lại Hành Quân 34A, thứ nhất,
t́m hiểu xem Hà Nội sẽ trả đũa như thế
nào cho các hoạt động bí mật này. Thứ hai,
thăm ḍ dư luận Quốc Tế. Sau khi nghiên cứu, ủy
ban Krulak khuyến cáo, Hành Quân 34A phải thu hẹp lại,
và Tổng Thống Johnson kư thuận những lời khuyến
cáo của ủy ban Krulak trong tháng Giêng năm 1964.
Bộ tư lệnh Quân Viện
MACV trong Saigon ban hành quyết định “General Order 6”, thành
lập một đơn vị “tối mật” được
biết đến qua danh hiệu MACV-SOG hay SOG (Đoàn
Nghiên Cứu Quan Sát) để thi hành những hoạt động
bí mật theo lệnh của Tổng Thống Johnson.
Theo tài liệu “The Secret War Against Hanoi”, tác giả Richard Schultz, Jr. t́m lại
những hoạt động của đơn vị SOG nơi
miền bắc Việt
Để yểm trợ cho
những hoạt động bí mật này, đơn vị
SOG có ba ngành, trong đó có Không Yểm, bao gồm tất cả
các loại phi cơ chiến thuật, trực thăng và
phi cơ vận tải, đóng trong các căn cứ không quân
trong miền nam Việt Nam và Thái Lan.
Tướng William Westmoreland,
tư lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt
Chỉ c̣n lại bốn toán
biệt kích cùng với một điệp viên đơn
độc (singleton) cẫn c̣n hoạt động nơi miền
bắc, được cơ quan CIA bàn giao cho đơn vị
SOG vào đầu năm 1964. Năm đó, SOG
đưa ra miền bắc khoảng 250 biệt kích quân, bằng
phương tiện thả dù, đường biển và
đường bộ.
Cơ quan CIA cung cấp cho
đơn vị SOG đủ loại “đồ nghề”
trong chiến tranh ngoại lệ. Những toán biệt kích
SOG mặc quân phục lính Bắc Việt, vơ trang tiểu
liên AK-47, đem theo ḿn bẫy, dụng cụ
nghe lén điện thoại, v.v... Các loại vũ khí trong
khối cộng sản kể cả súng cối 82 ly, sản
xuất từ Trung Cộng, cơ quan CIA mua lại từ một
quốc gia đệ tam, cung cấp cho đơn vị
SOG.
Ngoài ra đơn vị SOG có một
đài tiếp vận truyền tin, liên lạc, nằm trên
đỉnh một ngọn núi cao trên đất Lào, quân
đội Bắc Việt không thể lên tới được.
Đài tiếp vận này rất quan trọng,
cho những biệt kích quân bị thất lạc (trong lúc
gia tranh với quân đội Bắc Việt), liên lạc với
bộ chỉ huy hoặc các toán biệt kích khác.
Trong khoảng thời
gian từ tháng Tư 1964 đến tháng Muời năm 1967,
có khoảng 40 toán biệt kích, và điệp viên đơn
độc được đưa ra xâm nhập miền
bắc. Bốn toán biệt kích có tên
Toán biệt kích
Remus nhẩy dù xuống khu vực gần Điện Biên Phủ
ngày 16 tháng Tư năm 1962. Nhiệm vụ của họ
thiết lập một căn cứ bí mật, từ
đó phát xuất đi những chuyến ḍ thám lấy tin
tức. Ngoài ra toán biệt kích c̣n có thêm nhiệm vụ thâu
thập những tin tức, t́nh h́nh chính trị miền bắc
và những bản báo cáo của quân đội Bắc Việt,
t́m những băi thả dù để nhận đồ tiếp
liệu cũng như những toán biệt kích khác. Toán biệt kích Remus thành công, phá xập vài chiếc
cầu, nhưng trong năm 1968, mọi sự liên lạc với
toán biệt kích Remus chấm dứt. Sau
đó một tù binh Bắc Việt khai, có nghe nói toán biệt
kích Mỹ Remus bị bắt trong tháng Sáu
năm 1962.
Toán biệt kích Eagles được
thả dù xuống khu vực gần biên giới Việt-Trung
ngày 27 tháng Sáu năm 1964, với nhiệm vụ phá hoại
đường xá, đường rầy xe
lửa, và một căn cứ không quân. Họ
chưa hoàn thành nhiệm vụ, đă được lệnh
di chuyển về hướng nam rồi sau đó mất
liên lạc.
Toán biệt kích
Romero gồm mười người được trực
thăng đưa vào xâm nhập khu vực nơi hướng
bắc vùng phi quân sự. Toán biệt kích có nhiệm vụ
theo dơi các cuộc chuyển quân của
quân đội Bắc Việt từ miền bắc vào
đất Lào (sau đó vào miền nam Việt
Toán biệt kích Hadley, xâm nhập
miền bắc bằng cách băng qua vùng phi quân sự. Toán
biệt kích có nhiệm vụ theo dơi mức độ chuyển
quân của quân đội Bắc Việt trên các con đường
chạy qua Lào, và chỉ điểm cho không quân oanh kích
đoàn xe chở quân của địch. Toán biệt kích
Hadley có báo cáo về cho đơn vị SOG, nhưng những
tin tức của họ không có giá trị.
Toán biệt kích
Tourbillon nhẩy dù xuống khu vực gần biên giới
Lào Việt. Toán biệt kích cuối cùng
nhẩy dù xuống miền bắc là toán Red Dragon. Ngày 21 tháng Chín năm 1967, toán biệt kích Red Dragon bẩy
người nhẩy dù xuống khu vực nơi phiá nam biên
giới Việt-Trung. Cả hai toán biệt kích có nhiệm
vụ ḍ thám lấy tin tức và phá hoại đường
xá, cầu cống. Lần cuối cùng toán Red Dragon liên lạc
năm 1969, người Hoa Kỳ nghi ngờ toán biệt
kích đă bị bắt, gửi những báo cáo sai lạc về.
Trong chiến tranh tâm lư, người
Hoa Kỳ cho phi cơ thả radio, đă được
điều chỉnh trước xuống miền bắc, để
nghe hai đài phát thanh “đen”, đài “Gươm Thiêng Ái Quốc”
và đài “Cờ Đỏ”. Hai đài phát thanh “bí mật”
này phát ra những tin tức sai lạc, phóng đại, về
những toán biệt kích hoạt động bí mật nơi
miền bắc (dĩ nhiên thổi phồng). Những
điện văn gửi qua lại, nhắn tin giữa những
toán biệt kích đang “nằm vùng” nơi miền bắc,
làm sao bắt tay, v.v...
Nhiều toán biệt
kích đang hoạt động nơi miền bắc được
tăng cường thêm biệt kích quân bằng cách nhẩy
dù xuống. Toán Toubillon nhận thêm “người”
trong năm 1962, hai lần khác trong năm 1964, một lần
trong các năm 1965, 1966 và 1967. Toán biệt kích Remus được
tăng cường bốn lần, toán Easy được
năm lần. Tất cả những biệt kích quân nhẩy
dù xuống tăng cường đều bị giết hoặc
bắt sống. Đơn vị SOG tin rằng các toán biệt
kích đă bị bắt, rồi bị ép buộc gửi những
tin tức, báo cáo sai lạc vào Cơ quan Trung Ương T́nh Báo
CIA đă “làm” chuyện này từ lâu, bắt sống lính Bắc
Việt, bắt cóc thường dân sinh sống nơi miền
bắc, và xử dụng những “cảm t́nh viên” làm gián
điệp “hai mang”. Đến năm 1967, chỉ c̣n bốn
toán biệt kích, Eagles, Hadley, Red Dragon, Romeo và một điệp
viên đơn độc vẫn c̣n hoạt động nơi
miền bắc.
Đến cuối
năm 1967, đơn vị SOG cho thêm hai toán biệt kích xâm
nhập ngắn hạn, ḍ thám t́m mục tiêu vào trong các hoạt
động bí mật của họ. Hành
Quân 34 (Oplan 34) có thêm một “chương tŕnh” (kế hoạch)
mới, nhằm đánh lạc hướng cơ quan “phản
gián” miền bắc. Chương tŕnh này
có mật danh “Forae”, đon vị SOG hy vọng sẽ gây
chia rẽ trong nội bộ miền bắc.
Đến năm 1968, Hành Quân
34 chia làm ba chương tŕnh: 34A đặc trách các toán biệt
kích hoạt động nơi miền bắc Việt
Theo kế hoạch
Hành Quân 34A, những toán biệt kích xâm nhập miền bắc,
có nhiệm vụ xây dựng những nhóm kháng chiến, chống
lại chế độ Hà Nội. Nhưng
chưa bao giờ được
Chuyện đưa
những toán biệt kích xâm nhập miền bắc, có thể
nói hoàn toàn thất bại. Ngày 14 tháng Ba năm 1968, tư
lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, tướng
William Westmoreland, chấp thuận cho một chương
tŕnh mới nhằm đánh lạc hướng địch
quân, có mật hiệu là Forae. Mục đích chính của chương
tŕnh Forae, làm cho chính quyền Hà Nội tin rằng, có nhiều
toán biệt kích đang hoạt động nơi miền bắc
Việt
Forae có ba chương tŕnh
căn bản, mang mật danh, Borden, Urgency và Oodles. Chương
tŕnh Borden tuyển mộ tù binh Bắc Việt làm việc
cho đơn vị SOG. Họ đưa những
tù binh này đi nơi khác, huấn luyện, rồi trả
về miền bắc. Người Hoa Kỳ, cho họ
biết những tin tức sai lạc, có rất nhiều
toán biệt kích đang hoạt động hữu hiệu
nơi miền bắc Việt người.
Urgency có hai nhiệm
vụ. Thứ nhất, “làm việc” với
những tù binh (bị bắt), thường dân miền bắc
(bị bắt cóc) cứng đầu, không chịu hợp
tác. Những người này được đưa
ra “Paradise Island” (Cù lao Chàm) để nhồi sọ, làm cho họ
có cảm tưởng đang sống ở một nơi
nào đó trên miền bắc Việt Nam, trong ḷng một tổ
chức kháng chiến, với đài phát thanh “đen”. Sau
đó họ được huấn luyện nhẩy dù, và
thả dù xuống gần một làng nơi miền bắc
để họ có thể đi bộ đến làng, tŕnh
diện, đem theo những tin tức
sai lạc.
Nhiệm vụ
thứ hai cũng nhằm đánh lạc hướng chính
quyền miền bắc. Lần này họ xử dụng
những người chịu hợp tác, cũng đưa
ra “Paradise Island” tuyên truyền, trao cho những tin tức sai
lạc rồi trả về miền bắc.
Chương
tŕnh đánh lạc hướng địch quân qua phương
tiện truyền thông, máy phát thanh (radio) là Oodles. Chương tŕnh làm như có một hệ thống
gián điệp, biệt kích nằm vùng trong một khu vực
chọn lọc nơi miền bắc Việt
Ngoài ba chương
tŕnh chính yếu, Forae tạo ra thêm ba chương tŕnh khác,
Uranolite, Pollack, và Sanitaries. Uranilite thả xuống miền
bắc những thùng đồ “quấy rối” gây khó
khăn, mệt mỏi cho lực lượng an ninh miền bắc. Chẳng hạn như
thùng đựng giấy nhưng bên ngoài có vẻ như
thùng chứa máy móc điện tử để lấy tin tức,
dụng cụ ám sát, chất nổ, v.v... và
đă được toán biệt kích (ma) đến lấy
đi. Chương tŕnh Pollack gửi những
tài liệu giả, để viên chức trong chính quyền
miền bắc nghi kỵ lẫn nhau. Pollack
chấm dứt hoạt động trong tháng Mười Một
năm 1968. Sanitaries trợ lực cho đài phát thanh
đen “Gươm Thiêng Ái Quốc”, làm như các hoạt
động của các toán biệt kích nơi miền bắc
rất thành công.
Những chương
tŕnh “đánh lạc hướng” miền bắc, tỏ ra
có hiệu qủa. Đài phát thanh, báo chí
miền bắc lên tiếng lo ngại những chuyện
điệp viên, biệt kích xâm nhập. Đến
tháng Mười Một năm 1968,
Trong tháng Mười Hai
năm 1964, đơn vị SOG được lệnh gia
tăng những hoạt động đánh phá các mục
tiêu dọc theo bờ biển miền bắc.
Trong năm 1965, đơn vị SOG (Biệt Hải) đă
tổ chức 170 chuyến hành quân vượt tuyến phát
xuất từ Đà Nẵng. Những tầu chiến
Swift, Nasty chạy tốc độ rất nhanh, tấn công
các mục tiêu nơi bờ biển, bắt cóc ngư dân miền bắc đem đến “
HÀNH QUÂN 34A (OPLAN 34 ALPHA)
Hành quân 34A hay Kế Hoạch
Hành Quân 34 Alpha (Operation Plan 34 Alpha), là một chương
tŕnh tối mật, cho những hoạt động bí mật
chống lại chính quyền miền bắc Việt
Chương t́nh này do cơ
quan Trung Ương T́nh Báo CIA dựng lên từ năm 1961,
đến năm 1964 chuyển giao cho bộ Tư Lệnh Quân
Viện MACV trong kế hoạch “Trở Lại” (Switch Back).
Quân đội Hoa Kỳ xây đựng một đơn vị
lấy tên là Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát (Study and Observation
Group) SOG để nhận lănh trách nhiệm này. SOG cũng
là một “danh hiệu” để che dấu những hoạt
động trong “Chiến Tranh Ngoại Lệ”, nhận lệnh
trực tiếp từ bộ Quốc Pḥng / Tổng Tham Mưu
Quân đội Hoa Kỳ. Đại tướng William
Westmoreland, tư lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt
Nam không có quyền ra lệnh cho những cuộc hành quân
ngoài phạm vi miền nam Việt Nam. Ông ta được
nghe thuyết tŕnh, báo cáo, v.v... nhưng tất
cả mọi hoạt động ngoại biên đều
theo lệnh của bộ Quốc Pḥng và của Tổng Thống
Hoa Kỳ.
Theo đúng kế hoạch
nguyên thủy, hành quân 34A thả những toán biệt kích ra
miền bắc, xây dựng hệ thống kháng chiến chống
lại chính quyền cộng sản và thiết lập
đài phát thanh “đen” Gươm Thiêng Ái Quốc phát tuyến
ra miền bắc, trong chương tŕnh tâm lư chiến, tuyên
truyền chống lại giới lănh đạo miền bắc.
Đó là những
nhiệm vụ chính trong hành quân 34A cho đến cuối
năm 1966. Sau đó, nhiệm vụ phá
hoại, tâm lư chiến trở thành phụ, nhiệm vụ
chính là ḍ thám, phá hoại, ngăn chặn hệ thống
đường ṃn HCM.
Vấn đề
thả biệt kích ra miền bắc, nằm vùng dài hạn
quá khó khăn, có thể xem như thất bại hoàn toàn.
Hành quân 34A lại thay đổi kế hoạch, những
toán biệt kích “STRATA” chỉ xâm nhập ngắn hạn một,
hai tuần trong những khu vực giới hạn (gần vĩ tuyến 17). Ngoài ra đơn vị SOG
tổ chức chương tŕnh FORAE, gửi những điện
văn giả cho những toán “biệt kích ma” đang nằm
vùng nơi miền bắc để đánh lừa, làm rối
loạn chính quyền miền bắc. Đến cuối
năm 1968, hành quân xâm nhập được chia làm ba bộ
phận rơ ràng:
- 34A:
Xâm nhập nằm vùng dài hạn.
- 34B:
Xâm nhập ngắn hạn (Strata).
- 34C:
Đánh lừa (Diversionary).
Chương tŕnh Forae bao gồm
các hoạt động:
- Borden:
Xử dụng tù binh chính quy Bắc Việt bị quân đội
Hoa Kỳ bắt (họ không xử dụng tù binh quân đội
VNCH bắt), huấn luyện sơ sơ, cung cấp những
tin tức sai lạc, rồi cho nhẩy dù trở ra miền
bắc, với hy vọng họ sẽ bị lực lương
an ninh, biên pḥng miền bắc bắt. Những lời khai
của các tù binh này làm miền bắc tin rằng có rất
nhiều toán biệt kích đang hoạt động nơi
miền bắc.
- Urgency:
Ngược lại với hoạt động Borden, chọn
những tù binh Bắc Việt “cứng đầu”, rồi
trả tự do cho họ qua vùng phi quân sự. Khi trở về
miến bắc, họ nói sự thật cũng chẳng ai
tin tưởng.
- Oodles:
Với những hoạt động thả biệt kích, gửi
điệp viên ra miền bắc hoạt động... cứ
làm như thật, nhưng tất cả đều giả
tạo. Thí dụ như thả dù những tảng đá
(đá lạnh) lớn xuống miền bắc. Khi xuống
tới đất, nước đá tan hết, nhưng những
cánh dù vẫn c̣n đó, như có toán biệt kích vừa mới
xâm nhập.
Sau nhiều chuyến thả
biệt kích xâm nhập miền bắc Việt Nam không thành
công, tất cả các biệt kích quân Việt Nam trong các toán
biệt kích đều bị giết hoặc bị bắt,
giam cầm ngoài miền bắc. Đơn vị SOG chuyển
hướng hoạt động, cho những toán biệt
kích hải
quân (Biệt Hải) đánh phá một số mục tiêu dọc
theo bờ biển miền bắc Việt
TOÁN BIỆT KÍCH, ĐƠN
VỊ HATCHET FORCE, ĐƠN VỊ SLAM
Nói về Lực Lượng
Đặc Biệt Hoa Kỳ trên chiến trường Việt
Nam, chúng ta h́nh dung ra những toán A LLĐB, trấn đóng một
tiền đồn hẻo lánh, huấn luyện, chiến
đấu với sắc dân thiểu số người
Mèo, người Thượng. Nói chung, LLĐB/HK có nhiệm
vụ yểm trợ cho những hoạt động du kích
chiến đằng sau hậu phương địch.
Khi trận chiến lan rộng, Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát (SOG) là
đơn vị đặc trách những hoạt động
trong ḷng địch. Hành Quân 35 (Oplan 35) được trao
cho trách nhiệm tổ chức những chuyến hành quân
xâm nhập “vượt biên” qua Lào và
Thường những toán biệt
kích trong hành quân 35 có hai hoặc ba quân nhân LLĐB/HK, và chín biệt
kích quân người Thượng. Ngoài ra c̣n có những tiểu
đoàn “xung kích” SLAM (Search, Locate, Annihilate, Monitor) gồm bốn
đại đội. Đơn vị cấp lớn này
cũng hành quân ngoại biên, và phát xuất từ các căn
cứ hành quân tiền phương như các toán biệt
kích.
Những toán biệt kích có nhiệm
vụ: ḍ thám đường ṃn, khu vực, đặt ḿn
phá hoại, phục kích, bắt cóc tù binh, thẩm định
kết qủa trận đánh bom, điều chỉnh phi cơ
pháo binh bắn phá căn cứ, nơi đóng quân của
địch, cứu tù binh bị địch giam cầm. Nhiệm
vụ cho đơn vị SLAM thường là tấn công,
phá hủy binh trạm, căn cứ, kho hàng của địch.
Trong tháng Mười Một
năm 1967, hành quân 35 được tổ chức lại
với ba bộ chỉ huy: Bắc (Command and Control North, CCN)
ở Đà Nẵng, Trung (Central, CCC) ở Kontum, và Nam (South,
CCS) ở Ban Mê Thuột. Khu vực hành quân (ngoại biên)
được chia ra: Daniel Boone chạy từ ngả ba
biên giới (Việt, Miên, Lào, gần trại LLĐB Ben Het)
xuống đến hết miền nam. Prairie
Fire từ vùng tam biên trên đất lào, lên đến biên giới
với miền bắc Việt
Hành quân Prairie Fire là hậu
thân của hành quân Shining Brass, và sau năm 1971 đổi tên
Việt Nam là Phù Dung. Hành quân Daniel Boone đổi tên thành
Salem House và sau đó thành Thốt Nốt. Nickel Steel trước
đó có tên là Double Cross.
Từ tháng Chín năm 1966, cho
đến tháng Tư năm 1971, đơn vị SOG tổ
chức hơn 1500 chuyến hành quân xâm nhập qua Lào và Miên.
Thâu thập những tin tức chiến lược
về quân đội Bắc Việt. (G.B. Crouse)
Theo tài liệu: http://www.specialoperations.com/MACVSOG/Tales_from_SOG/Never_On_Sunday.htm
vđh