Sainte Livrade: một khoảng trời Việt Nam

cuối cùng trên xứ Pháp

Phan Văn Song, Nguyễn Thanh Vân và Nguyễn văn Trần

  Đây là một trại Tỵ Nạn Người Việt sau cuộc chiến Đông dương. Năm 1954, nếu có những đoàn người từ miền Bắc Việt Nam lũ lượt theo tàu há mồm xuôi về miền Nam ấm cúng của quê hương, th́ qua 2 năm sau, có những gia đ́nh Việt nam cũng gốc Miền Bắc, theo quân đội Viễn chinh Pháp trở về tỵ nạn ở mẫu quốc. Họ là những gia đ́nh binh sĩ của quân đội Pháp: gia đ́nh, nhưng thường là goá phụ lính Lê dương (Légion étrangère) hay gia đ́nh goá phụ các binh sĩ thuộc Lục quân Thuộc địa (Infanteries coloniales) hay gia đ́nh các binh sĩ các tiểu đoàn chư hầu (les bataillons supplétifs). Nhiều người tuy là dân sự nhưng cũng đă làm việc rất “gần” với quân đội hay hành chánh Pháp, như thông ngôn, hay nhơn viên ban điều tra, phản gián, phải rời Việt nam đi qua Pháp tỵ nạn v́ an ninh cho gia đ́nh. Phần lớn, họ thường là cấp nhỏ… Nói tóm lại họ là những thành phần phụ thuộc, bên lề của quân đội viễn chinh, thuộc địa, đă có ít nhiều một thời vàng son nhưng nay mất tất cả các ánh hào quang khi trở về Pháp v́ những trang sử đă lật qua và không c̣n một ai muốn nghĩ đến. Họ là những nhơn chứng của những ǵ chánh phủ Pháp ngày ấy muốn quên đi. Hội nghị Geneva hấp tấp vội vă, hy sanh, thí chốt nước Việt Nam Quốc gia, đă làm phương tiện giúp đỡ Pháp rút quân khỏi vũng lầy thuộc địa. Từ đấy Việt Nam trở thành chuyện (nhức đầu) của người Pháp, của người Việt Nam và tiếp theo, của …. người Mỹ.

Pháp đang quên và muốn quên Đông Dương quá xa xôi và từ đấy chỉ đang lo lắng cho Algérie và các thuộc địa ở Phi Châu. Trong cơn sốt đang xây dựng lại đất nước vừa ra khỏi cuộc Đại Chiến thứ 2, và c̣n thêm bị chiến tranh Đông Dương đă làm hao hụt tài nguyên rất nhiều, nay lại bắt đầu đâm đầu vào cuộc nội loạn ở Algérie. Lịch sử Pháp trong giai đoạn sau Đại chiến thứ hai là một chuổi dài những quyết định vụng về.

V́ vậy phải dấu những người tỵ nạn Đông Dương, nhơn đạo cũng vừa phải thôi. Vả lại, cuối cùng, dù sao đi nữa những người này cũng chỉ là một nhóm nhà quê!!!. Một nhóm lính thuộc địa. “Ce ne sont que des Nhaque de la soldatesque coloniale”!!

 1 - Trại định cư Ste Livrade

  Trại là một khu gia binh cũ, cất tạm thời, với những kiến trúc tạm thời kiểu trước Thế chiến thứ 2. Trại thoạt tiên được cất cho gia đ́nh các công nhơn di cư kinh tế người Ư năm 1939 đến để làm việc cho một kho thuốc súng (poudrerie) nằm bên bờ sông Lot, một nhánh của sông Garonne, ở Sainte Livrade. Thế chiến thứ 2 bùng nổ, kho thuốc súng không thành h́nh, thợ Ư không việc làm hoặc ở lại lành nạn chiến tranh tại Pháp, hoặc trở về Ư nhập ngũ quân đội Phát Xít Ư đánh …. Pháp. Và trại bị bỏ hoang.

Năm 1956, trại được sửa sang lại để tiếp cư những người tỵ nạn Đông Dương, nhưng trên thực tế, trại chỉ có toàn là người Việt nam gốc từ Miền Bắc. Cùng lúc có nhiều trại khác, phần đông ở miền Nam nước Pháp, như ở Montmorillon gần Poitiers, nơi làng người viết cũng có một trại, nhưng ở cạnh thành phố. Riêng trại Sainte Livrade đón nhận đông đảo người Việt nam hơn hết.

Những căn nhà sơ sài, tạm bợ, mái tôn xi-măng, vách bằng gạch ciment (blocks en parpaings de ciment), về sau, người ở tự cất thêm những nhà nhỏ bằng tôn để chứa củi, chứa dầu cho các ḷ sưởi mùa Đông. Tuy là ở miền Nam xứ Pháp nhưng thời tiết vẫn lạnh hơn ở Việt Nam nhiều. Nhờ ở miền Nam nước Pháp, họ có thể trồng được vài loại rau nhiệt đới như hành ng̣, húng quế, rau thơm…, cây chuối (làm kiểng chứ không kịp có trái) và đặc biệt là rau muống để giữ quốc hồn. Tất cả bà con di cư nầy là người miền Bắc Việt Nam, món ăn chủ yếu là rau muống.

Thời tuổi học sanh của người viết, lạc lơng giữa thành phố Toulouse, thường cùng bạn bè những ngày nghỉ cuối tuần đến Sainte Livrade để đi ăn và mua đem về các thứ hiếm quí như trứng (hột) vịt lộn, ḷng lợn (heo), cháo ḷng lợn (heo), tiết canh lợn (heo) có bán suốt năm. C̣n mua rau muống, phải đợi tới mùa hè. Đó là thứ rau muống trồng trên đất g̣, chứ không phải rau muống nước. Lúc ấy làm ǵ có mắm tôm, nên ăn rau muống thường chấm với anchois (cá mặn ăn khai vị) ngâm muối xây nát ḥa với nước, hoặc chấm với nước Viandox, hay Maggi thay nước mắm và nước tương. Lúc ấy, nước mắm không phải dễ t́m ở tỉnh lẻ. Vào những năm 64/65 ǵ đó, có một hăng nước mắm ở Sète, nằm bên bờ biển Địa Trung Hải nên nhà sản xuất lấy tên là nước mắm Trung Hải, bán cũng chạy lắm tuy ăn không ngon. Về sau, dân chúng láng giềng cạnh hăng nước mắm kêu trời v́ không chịu nổi mùi hôi quá. Họ khiếu nại với Chánh quyền địa phương. Tây hiểu một cách máy móc hôi thúi là do thiếu vệ sinh, chớ đâu hiểu được đó là mùi tự nhiên phải có của nước mắm. Thế là hăng đành phải đóng cửa. Nên biết nước mắm tuy thúi nhưng vẫn c̣n thua nhiều thứ phó-mác thứ ngon của De Gaulle và Chirac từng mê.

 2 - Tiệm tạp hóa và quán ăn. Bà cụ chủ quán sáng lập, cô con dâu và cháu nội

Hai gia đ́nh mở hai quán tạp hóa Á đông. Nhưng gia đ́nh Gontran mở cả tiệm ăn. Bán tạp hóa khô đủ cả. Tiệm ăn chỉ sơ sài bốn cái bàn trong nhà, một bàn to ở ngoài hiên. Người vào không cần chờ được tiếp đón, cứ thấy có chỗ th́ ngồi. Khách phần đông trước đây, lúc mới tới vào năm 1956, c̣n là trẻ con năm /sáu tuổi nay đă thành ông nội, ông ngoại hết cả. Thường ngày, trưa họ vẫn ghé qua ăn một tô phở, một dĩa cơm, một chén tàu hủ nước đường. Người viết, lăo Trần, chú Út, hôm nay, tuy lang bạt giang hồ, nhưng cả ba đă vào hàng Cụ và để dưỡng sức c̣n ngao du sơn thủy thêm nhiều ngày nữa, nên chọn ăn chay để được Trời Phật thương. Nhà hàng do bà cụ nay ngoài 80, một tay điều khiển cùng cô con gái, chú rể Tây đứng bếp, cô dâu đầm trông cửa hàng, cô cháu nội lai chạy bàn... mấy cô nhóc, cậu nhóc là cháu cố (chắc) cũng phụ một tay, bưng chè, bưng nước cho khách. Sơ sài, quần sọt, áo thun, một khăn bàn quấn bụng, nhưng sạch sẽ, vệ sanh, niềm nở. Một tiếng Tonton (Oncle - Uncle/ Chú -Cậu) hai tiếng Tonton.. Xưng cháu lễ phép đàng hoàng.

 

3 - Bà Cụ Joséphine Le Crenn c̣n giử răng đen

Bước vào cổng làng cả ba đang lơ ngơ ḍm ngó, t́m kiếm, th́ một chiếc xe đang chạy, ngừng lại, hỏi “ quư vị t́m ai? ” bằng tiếng Pháp. Sau đó, khi biết khách lạ là người Việt, họ nói chuyện tiếp bằng giọng Bắc trong sáng, ngon lành, không nói ngọng, không nói nhanh. Trên những khuôn mặt, mắt xanh, mũi cao, hay lọ nồi đen như ông Táo Phi châu đen, tất cả đều phát âm một giọng Bắc trong sáng. Trái lại hỏi đến ông nào th́ lẫn lộn thằng, nó, cho ngôi thứ ba. Ôi tiếng Việt vừa khó vừa dễ thương. Chúng tôi ăn bánh cốm do gia đ́nh làm, ăn tàu hủ nước đường cũng do gia đ́nh làm. Đúng là thứ thiệt.

Gia đ́nh ông cụ bà cụ Gontran có cả thảy 14 người con, 7 trai, 7 gái. Tất cả đều trưởng thành, nên vợ nên chồng cả (dâu rể toàn người Pháp, dân bản xứ). Từ những cái quán cóc bên trong trại, bán thêm bún riêu, bánh cuốn, ḷng lợn, tiết canh năm nào, nay gia đ́nh đang khai thác một tiệm ăn to ngoài thành phố Villeneuve /Lot “ Restaurant le Mandarin ” và cái tiệm tạp hóa “ Chez Gontran ” với một góc làm quán ăn tọa lạc trong trại.

 

 4 - Trả lời phỏng vấn bất đắc dĩ

Trại tỵ nạn Sainte Livrade có tên gọi là CAFI (Centre d’Accueil des Français d’Indochine). Hiên nay, Thị xă và Toà Hành Chánh Vùng (Région) muốn thành lập một nơi để tưởng niệm. Cô Chủ nhiệm chương tŕnh đang phỏng vấn và hỏi ư kiến những người Việt Nam (cậu Marcel, người viết và lăo Trần) xem phải làm cái ǵ để “ khỏi quên ”. Một Nhà tưởng niệm?, một bia đá?, một trang lịch sử đau khổ, gần 2000 người với 740 con trẻ rời miền Bắc vào Nam, rồi sau một tháng tàu tới bến Marseille để đến Sainte Livrade trong cái giá lạnh của năm 1956. Bà Joséphine Le Crenn năm nay 87 tuổi thuật lại những ngày đầu mới tới: “6 đứa con, người chồng đi lấy vợ khác. Tôi ở lại căn nhà xinh xắn ở Hà nội. Làm sao để sống đây? Tối đêm đầu tiên, mẹ và sáu đứa con ôm nhau nằm trên ba chiếc sắt quân đội gom lại đề sưởi ấm nhau, và để bớt sợ”. Ngày nay bà Joséphine Le Crenn đă quy y, và trước đó bà chịu trách nhiệm cái Chùa của trại CAFI.

 5 - Cụ Le Jeune, c̣n gọi là ông già nuôi mèo

Chúng tôi ghé thăm Cụ Emile Lejeune, 89 tuổi. Với một giọng lai lai miền Trung, giọng Thanh Hóa. Mặc dù Emile tự giới thiệu ḿnh là người Nghệ An. Con một vị thẩm phán người Pháp và một cô công chúa Nhà Nguyễn. Cụ Emile theo vai vế là ngang hàng với hàng Ưng, hàng chú của Bửu, hàng ông của Vĩnh. Như vậy là hàng ông của Đức Quốc trưởng Bảo Đại. Tuổi trẻ đẹp trai, đầu chải láng mướt, từng nổi tiếng với biệt danh “Tino Rossi de Hanoi”, Emile Lejeune vào quân đội Pháp năm 18 tuổi, bị tù và thoát nạn bị chém đầu ngày 9/03/45 khi Nhựt đảo chánh Pháp, nhờ vượt ngục. Bị tù 6 năm ở trại 113 của Việt Minh. Trong những năm chiến tranh Đông dương cứ bốn tù binh bị Việt minh bắt chỉ có 1 người sống sót. Cụ Emile hiện sống cùng bà vợ thứ người Sa Đéc. Bà Cụ nhớ thời niên thiếu và nhờ Cụ mà tôi biết rơ là tướng Chanson và Thủ hiến Thái lập Thành bị ám sát tại Sadéc, chứ không phải tại Cai Lậy như tôi thường nhớ lầm. Nay xin đính chánh và mong bà con sửa dùm. Cụ Emile Lejeune hiện nay có thú tiêu khiển là nuôi mèo. Tất cả mèo ở trại CAFI đều được Cụ săn sóc, v́ lúc xưa khi bị Nhựt bỏ tù nhờ một con mèo đă chỉ đường cho Cụ vượt ngục.

Một nhà thờ, một ngôi Chùa. Sanh hoạt tôn giáo vẫn được người Việt Nam lạc lơng nơi quê người tiếp tục ǵn giữ. Thuở xưa, những năm chúng tôi c̣n là sanh viên vẫn đến Sainte Livrade thưởng thức lễ lên đồng rất Bắc, người viết đă biết không khí lên đồng như lên đồng kiểu Huế khác lắm!!!

À quên, thoạt đầu những nhà xí, cầu tiêu đề ở ngoài. Phải đi ra khỏi nhà mới đi vệ sanh được.

Đây là một cái nh́n sơ sài để giới thiệu với các bạn đọc Việt Nam gốc tỵ nạn cộng sản những người tỵ nạn lớp đầu tiên trên đất Pháp. Lịch sử Việt Nam với những trang sử oai hùng, với những trang sử buồn tủi, chúng ta có bổn phận phải biết. Người Việt Nam, ngày nay qua bao thăng trầm, bao tủi nhục, có mặt ở khắp mọi nơi trên thế giới. Pháp nợ ta, Mỹ nợ ta… Họ đến quê hương ta, nhân danh khai hóa hoặc đồng minh chết sống có nhau, rồi họ ra đi, họ gieo t́nh yêu, họ gieo ơn oán… Những người con Việt Nam, những giọng nói Việt Nam c̣n đó. Chúng tôi nghe lại những giọng Bắc trong sáng, không một chút ngọng, lẫn lộn nờ lờ, hay nói nhanh như chim... Thế mới biết chúng ta bị mất mát nhiều với người Cộng sản. Vậy giọng Bắc ở Sainte Livrade đúng giọng Bắc, hay giọng Bắc của người “Hà Lội” ngày nay đúng?

Chúc quư vị một ngày vui

Phan Văn Song, Nguyễn Thanh Vân và Nguyễn văn Trần (ba lăng tử bụi đời nhân những ngày Hè nắng nóng)(VL)