Phạm Văn Ḥa

 

 

 

Trả Lại Khung Trời

 

 

Mấy ngày nay trời ảm đạm vần vũ, khung trời xám xịch, tôi nh́n khoảng không gian được thu hẹp từ trên văn pḥng nằm trong cao ốc ở thành phố.  Từ đây tôi chỉ c̣n thấy vơn vẹn những gốc cạnh ngang thẳng cao tồng ngồng của các cao ốc che mất những cảnh sắc thiên nhiên. Ánh mắt tôi bị thu hẹp trong những đường ngang-thẳng nầy nên chỉ c̣n thấy ánh sáng mập mờ của những căn pḥng qua khung cửa sổ ở những cao ốc kế cận.  C̣n trong những ngày nắng ráo,  từ đây tôi cũng chỉ nh́n thấy những tia nắng lẻ tạo thành những h́nh tượng như bức tranh lập thể của Picasso, in trên mặt đường.  Thiên nhiên đến với tôi, những ngày mưa nắng đến với tôi, đă được bóp nặn và gạn lọc, cũng như cuộc sống văn minh, luật lệ xă hội chỉ cho phép con người sống trong những môi trường đă được nhào nặn bóp méo.  Xă hội càng văn minh th́ con người càng đi xa với thực tế.  Quê hương tôi lúc tôi c̣n bé, xa tít bên kia nữa ṿng trái đất, nghèo nàn, đơn sơ, nhưng ít ra tôi c̣n được chiêm ngưỡng thiên nhiên một cách tṛn vẹn và nguyên thủy.  Giờ đây, tôi không làm sao t́m được mùi nồng nồng, hây hây, hăng hăng của cây rơm cột trâu ḅ ở miền quê; tôi không c̣n thấy được ngọn khói lười biếng nhưng thanh b́nh vươn lên từ những xóm nhà khi buổi chiều chầm chậm xuống.  Tôi không c̣n nghe được tiếng gà gáy sáng và tiếng heo ục ịch trong chuồn vào lúc nửa đêm.  Tôi thèm được ngửi, nghe, thấy lại h́nh ảnh quê tôi.  Có phải đây chỉ là ảo giác của cuộc sống thế gian tạm bợ mà khi đă vuột mất th́ không c̣n cách chi bắt lại được. 

Ôi nhiệm mầu thay ngày xưa c̣n bé!!!!!

*

**

Đàn chim bồ câu trong thành phố nằm ngủ dật dờ ngoài khung cửa, co ro, chênh vênh bên các cao ốc.  Tôi tự hỏi, tại sao chúng không bay đi tránh xa nơi nầy, khi ngoài kia đồng ruộng mênh mông, nơi thức ăn đầy ắp ngoài đồng, nơi nước uống đầy hồ, tội t́nh ǵ lại phải đóng khung trong thành phố u uẩn nầy để sống nhờ vào những mẩu bánh ḿ khô khiển vụn vặt, hoặc rúc đầu vào những đống rát t́m các thức ăn thừa thải!  Hởi đàn chim có đôi cánh, đừng để phí đặc ân trời ban, hăy bay thiệt xa, thiệt cao để nh́n thấy chân dung đích thực của con người, để thấy sự mầu nhiệm của hai chữ Tự Do.  Ôi đôi cánh thiên thần, tôi đă mơ ước lúc c̣n tấm bé khi nh́n đàn chim sắt bay lượn ngang nhà.  Những mong được chấp cánh bay bổng để được nh́n ngắm làng xóm, đồng ruộng, con kinh uốn  quanh đường Hàng Tràm dài hun hút như mạch máu chảy về tim nơi có cha mẹ họ hàng bè bạn sanh sống. 

Hăy đừng phí một kiếp người, sống trong sự nô lệ, tự ràng buộc như những con chim bồ câu trong thành phố.  Khi chúng ta c̣n đủ ngủ giác, c̣n sức khỏe, c̣n tự do để sống qua các thời khắc trời cho th́ hăy tận dụng, v́ nếu một mai khả năng kia bị tước đoạt hay đánh mất th́ có hối tiếc cũng đă muộn màng rồi. 

Hăy nghĩ đến những người bạn, các chiến hữu đă bị tước đoạt một phần đời trong lao tù CS.  Chấn song đă ngăn chia:  "Tự Do và Ngục Tù"!  Cùng ánh mặt trời, nhưng ngoài kia sao rạng rỡ huy hoàng trong khi bên này tối thui u ám; cùng áng trăng, nhưng ngoài kia thơ mộng trong khi bên này ảm đạm buồn thiu; cùng ngọn gió, nhưng ngoài kia êm ái nhẹ nhàng thơm tho hương đồng cỏ nội, trong khi bên này âm ĩ hôi tanh.  Cái quư của hai chữ Tự do mà bọn CS đă tước đoạt, người chiến sĩ thất thời đành ngậm ngùi cam chịu và hy vọng một ngày được sổ lồng bay bổng như cánh chim.  Các bạn tôi, các chiến hữu tôi, cũng như tôi thèm được ngửi mùi hương đồng cỏ nội, thèm được ngắm ánh trăng tṛn trịa như cái nia vằng vặc sáng sau rặng dừa bên sông.  Oan nghiệt thay, họ phải bỏ một phần đời trong ngục tù, nh́n khoảng trời đất mênh mông qua chấn song cửa sắt và cơ thể thoi thóp sống cầm hơi qua ngày cho số kiếp "Người Tù Không Bản Ản"!

*

* *

Tôi không bị mất Tự Do như những người bạn bất hạnh, nhưng bị chôn chặt cuộc sống trong bốn bức tường cao ốc chỉ v́ phải làm để kiếm sống, th́ có khác ǵ bị cầm tù giam hảm tuổi đời!  Nghĩ lại, tôi mới thấy thương cho thân tôi đă phải đóng khung cả mấy chục năm trời!  Tôi thèm được một ngày nào đó khỏi phải lo đi làm, khỏi phải thức khuya dậy sớm, khỏi phải khắc khoải hồi hộp khi chuông điện thoại reo vang trong đêm của những tuần lễ ứng trực cho hảng.

Và ngày đó đă đến!  Ngày về hưu, lúc đó tôi có nhiều thời giờ làm điều ḿnh thích, sẽ cất cánh bay thật cao, bay thật xa để nh́n thấy vạn vật nhỏ bằng ngón tay . . . hay rồi  sẽ nao nao buồn v́ cảm thấy như ḿnh đứng ngoài lề của xả hội.  Nhớ đến cảm giác lâng lâng khi ngày cuối cùng rời nhiệm sở, dọn dẹp văn pḥng, từng chồng hồ sơ được đưa vào máy cắt như xé vào tim, nh́n bàn ghế lần chót như ĺa người thân, chia tay bè bạn ḷng bồi hồi bịn rịn, tôi đọc trên từng khóe mắt và những cái siết tay  . . . phút cuối cùng chia tay biết là ḿnh sẽ vĩnh viển không trở lại cái khung cảnh quen thuộc, gặp các bạn bè đồng sở đă chia sẽ vui buồn bao nhiêu năm qua!  Chiếc ghế là kỷ vật duy nhất tôi c̣n giử để làm kỷ niệm v́ nó đă giúp tôi qua những ngày dài làm lụng mệt nhọc, cũng như tấm thẻ bài là kỷ vật cuối cùng cho cuộc đời binh ngũ.  Trong những năm tháng c̣n lại tôi sẽ ngồi trên chiếc ghế kỷ niệm này để nhớ lại cuộc sống lao tâm lao lực ở xứ người, cũng như tôi từng mân mê tấm thẻ bài để nhớ lại cuộc chiến đấu và sự hy sinh của ḿnh cho quê hương tôi.  Việc đóng góp tuy nhỏ nhoi của bản thân này cho xă hội, nhưng tôi không phí một khắc khi tuổi hoa niên cho Tổ quốc Quê hương.  Giờ đây tôi mang tâm trạng của dư âm và luyến tiếc.  Dư âm của nỗi thăng trầm trong kiếp sống con người và luyến tiếc cho tuổi thanh xuân đă vuột khỏi tầm tay.

Hăy cho tôi lên chuyến xe lửa tốc hành thời gian chạy nhanh hơn tốc độ ánh sáng để tôi t́m lại tuổi thơ, để tôi gặp lại ba mẹ, bà con, chiến hữu, để tôi thấy lại h́nh ảnh quê hương . . . và để tôi được lặn ngụp trong vùng kỷ niệm. 

Phạm Văn Ḥa