Tùy bút:
Một
Năm Người Có Mười Hai Tháng
Ta
Chỉ Riêng Ḿnh Một Tháng Tư!
Hoàng
Minh Thúy
Thắm thoát lại đến tháng
Tư, cái mốc thời gian gợi bao nỗi đau
thương, tủi nhục của người Việt
lưu vong mỗi khi nhớ đến tháng Tư năm
1975, nên có người gọi là “Tháng Tư đen”. Một
nhà văn nổi tiếng và cũng là nhà thơ đă
hạ bút để diễn tả sự ưu hoài của
ông trong tháng Tư quốc nạn:
Một
năm người có mười hai tháng.
Ta chỉ
riêng ḿnh một tháng tư
(Thanh
Tháng 4 đến, chắc
chắn sẽ gợi nhiều kỷ niệm, nhất là
với các người lính của Quân Lực Việt Nam
Cộng Ḥa, đă tức tủi tan hàng. Kẻ mất người yêu trong
cơn hỗn loạn. Người th́ tan nát gia đ́nh sau
tháng năm dài tù tội. Biển cả hóa nương dâu..
Tháng 4 đến, khiến cho ta nhớ lại:
-Thiếu tướng Phạm văn Phú,
sau cuộc lui quân từ cao nguyên về, thất bại, ông
nhập viện và uống thuốc độc tự tử
vào ngày 29 tháng 4, 75.
-Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư
lệnh Sư đoàn 5, dung súng tự sát trước sân cờ
Bô- Tư Lệnh ở Lai Khê, Bến Cát, B́nh Dương sau
khi nghe tướng Dương văn Minh ra lệnh buông súng.
-Chuẩn tướng Lê văn hưng, Tư
Lệnh Phó Quân đoàn 4, sau khi nói lời giă biệt vợ
con, ông vào văn pḥng, dung súng tự sát lúc 8 giờ 45 phút tối
ngày 30 tháng 4, 75.
-Tướng Nguyễn Khoa
-Chuẩn tướng Trần văn Hai,
Tư Lệnh Sư Đoàn 7, Bộ Binh, đă uống độc
dược tự tử tại pḥng Chỉ Huy ở Mỹ
Tho lúc 5 giờ chiều 30 tháng 4, 74.
-Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh tưởng tỉnh Chương Thiện, chiến đấu đến giờ phút cuối cùng, bị bắt, và bị xử tử ngày 14 tháng 8, 75. Trước khi bị hành quyết, ông đă dơng dạc tuyên bố:
"Nếu
tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục
tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các
anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do
của người dân. Tôi có công mà không có
tội. Không ai có quyền kết tội
tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là
giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết
tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt
mắt. Đả đảo cộng
sản. Việt
Chúng ta c̣n có Trung Tá Cảnh sát Quốc
Gia Nguyễn văn Long, dung súng tự sát dưới chân tượng
đài trụ sở Quốc Hội tại Saigon.
Chúng ta c̣n có 7 anh chàng samourai của gia đ́nh
Mũ Đỏ, ngồi thành một ṿng tṛn, chia nhau hớp ruợu
cuối cùng, rồi mổi người một trái lựu đạn
cá nhân, cùng rút chốt một lần, như lời kể của
một kư giả Nhật của hăng thông tấn Kyodo, trong số
báo ra tháng 12, 1975..
Và c̣n nhiều nữa, những
người lính tử thủ trong rừng mía, chiến đấu
cho đến khi tuyệt vọng, họ đă dùng viên đạn
cuối cùng, tự xử đời ḿnh.
Với tôi, mỗi khi gần đến
ngày Quốc Hận khiến cho tôi nhớ lại tháng 3,
1975, khi làn sóng dân, quân di tản từ miền Trung tất
tả đổ dồn vào thành phố Nha Trang. Những
trại tạm cư, nhà thờ, trường học, chùa
chiền, đầy những khuôn mặt ngơ ngác, kèm theo tiếng khóc ai oán. Người mất
cha, kẻ mất chồng, người ưu tư về
thân phận thân nhân c̣n kẹt lại ở các tỉnh
địa đầu giới tuyến...
Tôi không có bà con, bè bạn trong rừng
người di tản đó, chỉ có tấc ḷng quặn
thắt của t́nh người, khi nghĩ đến
những phụ nữ cùng lứa với ḿnh, đang lao
đao khốn khổ v́ thảm họa chiến tranh. Khi đưa tặng họ những món quà
mọn, người không quen nhận bằng đôi mắt
vô hồn. Có ai nghĩ tới một ngày, họ
phải bỏ nhà cửa, xe cộ,
ruộng vườn, để đứng, ngồi la
liệt trên các tấm chiếu nylon ở một nơi
đông đúc, hỗn độn như thế này! Tội
nghiệp nhất là các thiếu phụ trẻ tuổi,
bụng to vượt mặt, hay con c̣n bồng ẳm trên tay. Một tay dắt con,
tay dắt mẹ, cuộc đời cô trôi dạt về
đâu?
Tôi rời Nha Trang vào
tuần lễ thứ 3 của tháng Ba, về
Phi cơ đáp. Ngơ ngơ ngác ngác giữa rừng
người ở trạm Hàng Không Quân Sự trong phi
trường Tân Sơn Nhất, vai đeo túi xách, tay bế
con gái hai tuổi, tay dắt con trai tám tuổi; Trang Đài lúc đó
hai tuổi, c̣n ôm theo chai sữa. Tôi cố t́m trong đám
đông một khuôn mặt thân quen, để quá giang ra
cổng trại Phi Long, từ đó đón xe
về nhà cha mẹ. Khoảng cách không
đầy 3 cây số mà tấp nập người di chuyển.
Bươn bả, hấp tấp, chộn
rộn, bàng hoàng, mệt mỏi, kinh sợ.
Rồi tháng 4 đến, nhằm ngày 19
tháng 3, Ất Ngọ, thành phố Saigon tràn ngập cờ
đỏ sao vàng, áo quần lính vất ngỗn ngang, giày
saut, bi đông, nón sắt… Ôi, tội nghiệp thay cho người
lính của chúng ta…
Tháng 5 tới, Quân Dân Cán
Chính Việt Nam Cộng Ḥa bị mời lên Phường,
Khóm tŕnh diện. Ở trong xóm, một sĩ quan Hải Quân treo
cổ, nhất quyết không nộp ḿnh. Một sĩ
quan Bộ Binh, cho gia đ́nh ăn cháo pha
thuốc độc để t́m về bên kia thế
giới, nơi không có bóng cờ, mà đại gia đ́nh
ông đă từ bỏ năm 1954, trên con đường
hải hành gian khổ từ Bắc vào
Rồi từ đó, chánh
quyền mới luân phiên đổi tiền, để
biến người có nhà thành kẻ không nhà. Người giàu hóa
điên, v́ bị tịch thâu tài sản. Công an khu vực tự do vô ra gia cư của
mỗi người, kiểm soát kín đáo các diễn
biến trong gia đ́nh. Dân chúng
Những sự việc này, ai đă
từng kẹt lại sau tháng 4, 1975, đều không
lạ!
Từ ngày đó, những
người yêu, người vợ của lính, trạc
tuổi 30, má hồng phai nhạt. Họ bới tóc cao, đội nón lá,
tất tả ngược xuôi chợ trời, trên các
tuyến đường xe đ̣,
kiếm tiền nuôi con, thăm chồng, thăm anh em
cật ruột trong lao tù khốn khổ. Các tù nhân cải
tạo, bị chuyển đưa tù trại này sang
trại khác, vất thư nhắn tin
dọc theo đường di chuyển. Mấy
bà nhận được tin, th́ thào, loan báo cho nhau
để biết chỗ mà bới xách, thăm nuôi. Quay đi, ngoảnh lại, cực khổ gian
truân thắm thoắt cả chục năm, người
chồng thân yêu mới được thả về.
Có anh đă nằm xuống, thân xác gửi cho rừng cây
của trại tù heo hút sau những ngày lao động,
thiếu ăn thiếu thuốc....Có anh tự t́m về cơi
chết khi nghe vợ giao con cho ông bà nội, lập gia
đ́nh mới. Cả một bầu trời tang
thương phủ chụp lên đời sống của
dân chúng miền
Thắm thoát đến nay, đă mấy
chục năm!
* * *
Khi bạn đọc cầm số báo này
trên tay, thành phố của chúng ta đang
chuẩn bị cho ngày tưởng niệm Tháng Tư
Đen. Đă ba mươi sáu năm, Houston
vẫn luôn có chương tŕnh tưởng nhớ ngày
Quốc Hận, mặc dù
mười mấy năm gần đây, không có
biểu t́nh tuần hành, đêm Không Ngủ như
trước. Thủơ đó, phương
tiện truyền thông chỉ hai ba tờ báo, có tờ phát
hành không đúng ngày. Muốn loan tin cho cộng
đồng, Ban Tổ Chức in truyền đơn,
rồi thay phiên nhau đi răi, đi gắn trên kiếng xe,
dán trên tường của các chợ Việt Nam Plaza,
chợ Hoà B́nh, tiệm phở, cà phê, vũ trường..
Ngày đó, mỗi tháng Tư về, nhóm tổ
chức Ngày Quốc Hận, Ngày Quân Lực, bỏ tiền
túi ra thực hiện công tác: treo cờ, thiết lập
khán đài, xin giấy phép biểu t́nh. Thương mại
của người Việt
Chương tŕnh Văn Nghệ đêm Quốc Hận
ngày xưa, không tăng cường ca sĩ phương xa
về, chỉ có lèo tèo vài bản đơn ca, hợp ca các
bài hát đấu tranh, chính huấn. Tuy vậy, trong
Đêm Không Ngủ tổ chức tối Thứ Bảy,
đông đảo người tham dự v́ hiểu
rằng:
Bạn bè
anh giờ này đang đốt lửa.
Anh
ngại ǵ không góp chút củi khô?
(tác
giả?)
Nửa khuya, ban ẩm
thực dọn cháo gà, bánh ḿ. Nhiều đêm mưa rơi tầm tả, khi tan
hàng, cha mẹ lẫn con cái lúc thúc chạy ra xe.
H́nh ảnh này rất cảm động, v́ nhiều anh
chị dắt theo con cái, chúng c̣n quá
nhỏ lúc đó, như gia đ́nh Hứa Thọ Hùng,
Trần văn Chiến và gia đ́nh tôi. Nửa đêm cháu
Trang Đài, mắt nhắm, mắt mở, chạy theo mẹ ra xe. Thời gian này, hầu như
tất cả, đều cảm thấy có bổn phận
với thân phận người Lính c̣n ở trong các
trại tị nạn Đông Nam Á (chờ cứu xét
định cư), những người lính c̣n ở các
trại cải tạo từ Nam tới Bắc và thiết
tha với các tổ chức phục quốc của
nhiều đảng phái. Bởi v́, mỗi người
trong cuộc sống mới, đều có chung
cảm nghĩ:
C̣n
vương khói súng hằn trong mắt.
Gạt
lệ nh́n nhau hồn xót xa.
(TQLC Nguyễn Kim Tiền)
***
36 năm đi qua, một
thế hệ đă trưởng thành, trở thành những
doanh gia, chuyên viên đủ mọi ngành nghề, góp phần
làm phồn thịnh cho nền kinh tế
Hôm nay, nếu tổ chức các
chương tŕnh của ngày Quốc Hận, ngày Quân Lực
để hâm nóng bầu không khí cũ, mà không có ca sĩ xa
về tăng cường, đồng hương sẽ
không đông đảo v́ phim bộ Đại Hàn, Hồng
Kông, pḥng trà, vũ trường... vẫn có tiếng
gọi lôi cuốn hơn. Một
số đồng hương không muốn tham dự, v́
sợ ảnh hưởng cá nhân khi về du lịch VN!!!
Một số yên phận, chấp nhận cuộc
đời giá aó túi cơm…
Mấy năm gần
đây, nhờ hệ thống điện toán ra
đời, giải quyết phần nào sự khắc
khoải của mỗi cá nhân, trong mỗi hoàn cảnh. Các đài phát thanh,
truyền h́nh, báo chí tràn ngập thành phố, mở mang
kiến thức cho khán thính giả. Các bài viết
được dịp phổ biến, nhờ vậy mà
hồi kư của các nhân vật có thẩm quyền trong
chế độ cũ, lần lượt phơi bày
mặt trái của mọi vấn đề, chính trị
lẫn tôn giáo trong cuộc chiến, dẫn đến biến
động tháng Tư đen.
Đọc xong, càng thêm
ngậm ngùi, thương cho thế hệ tuổi trẻ
Việt
* * *
Tháng Tư, cũng là tháng sinh nhật
của tôi. Như thông lệ, tôi không tổ chức
tiệc mừng, mà tự thưởng cho ḿnh một
thời gian riêng tư, để lanh quanh t́m các bài thơ,
bài nhạc, của những kỷ niệm học tṛ
một thời gắn bó, có bạn bè, người yêu
đều là Lính. Vừa để mắt t́m trong “Net”, ḷng
vẫn vơ nhớ những kẻ
đă hy sinh, những người bạn học chung
lớp, thành kẻ thương tật khi vừa ra
khỏi quân trường.
Họ đang ở đâu,
có tồn tại sau tháng 4 quốc nhục?
Tôi t́m thấy nhiều bài thơ rất
hay, của những người thanh niên trẻ, bỏ tay
viết thay tay súng, để bảo vệ quê hương,
vẫn luôn giữ được tính tính đôn hậu,
như thứ t́nh yêu mơ màng thật dễ thương
qua một bài thơ của tác giả Trần Ngọc Nguyên
Vũ..
Bài thơ mang tên “Giao Thừa trông ánh
Hỏa Châu Rơi”, xin chép lại để chia xẻ cùng
bạn đọc:
Ai
về phố núi cao nguyên ấy.
Xin
chuyển giùm tôi một lá thư
Tới
ngừơi con gái buồn-muôn-thuở
Từ
độ xa nhau chẳng giă từ
Em gái xa
nhà, tôi lính trận
Gặp
gở qua giây phút ngại ngần
Thị
trấn về đêm heo hút lạnh
Mưa
rừng, quán vắng bỗng thành thân....
Tôi
c̣n bà mẹ bầy em nhỏ.
Em cũng
mẹ già, mấy đứa em
Cũng
chiều tựa cửa ngồi trông đợi
Cũng
mỏi ṃn trông dưới ánh đèn.
Sinh ra
thời loạn nhiều gian khổ
Phận má
hồng thân lắm bụi trần
Tôi
trải đời trai theo khói lửa
Em giặt
ḷng, ṿ nát tâm can
Em kể
chuyện ḿnh cay đắng quá
Cả
đời chẳng được một lần vui
Thôi th́
vận nước c̣n trôi nổi
Hăy mỉm
cười thay những ngậm ngùi
Tôi móc
hết tiền lương vừa lănh
Nh́n em
xỏa tóc phủ vai gầy
Nghẹn
ngào khoé mắt rưng rưng lệ
Em nói
lời nghe mưa bóng mây
Mai tôi ra
trận, không cần đến
Em giữ
mà may chiếc áo dài
Sắp
đến tết rồi, về thăm mẹ
Mua quà cho mấy đứa em trai
Rồi đây trên bước
đường xuôi ngược
Em dạt về đâu một kiếp
người
Tôi ở tiền đồn ngoài BenHet
Giao thừa trông ánh hỏa châu rơi!
Bạn thấy
người lính trẻ của chúng ta có
..dễ thương không, với lời thơ: “Tôi móc hết tiền lương
vừa lănh”, tặng cho cô gái nghèo phải mở quán
mưu sinh, để cô về
thăm Mẹ, mua quà Tết cho em dại, v́ rằng, ngày mai anh ra chiến
trường, biết có c̣n sống mà tiêu xài!
Ôi! Người lính hào hoa
của Quân Lực VN Cộng Ḥa. Người lính đó bây
giờ về đâu trong cơi đời nghiệt ngă? Có
phải anh hiển hiện trong cuộc sống lầm
than, cơ cực, qua lời thơ của nhà văn
Mường Giang:
Có lần từ Mỹ về Phan Thiết
Theo bạn nhậu chơi tận Phú Long
Bữa tiệc nhà giàu đầy
rượu thịt
Đời vui như cảnh lạc tiên
bồng
Đang lúc ngă nghiêng cười ngặt
nghẽo
Bỗng ai vừa trổi khúc ly ca
Thêm đàn vọng cổ hờn, than, oán
Năo nuột trời ơi, nước
mắt ḥa
Ra ngó, gặp anh người hát dạo
Cụt chân, mù mắt, lết xe lăn
Phong trần, nhuộm bạc đời
trai trẻ
Nhưng nét nam nhân vẫn khắc hằn
Mấy chục năm sầu, bao biển
lệ
Mà anh vẫn giữ áo hoa rừng
Chiến y chằng chịt trăm lần
vá
Bạc phết, đoạn trường
lắm thảm thương
Anh hát toàn bài chinh chiến cũ
Điệu ru nước mắt, nát tim
người
Ḥ, xề, sang, xứ như ̣a thét
Khiến kẻ vong gia cũng tả
tơi.
Tàn tiệc, mỗi người trôi một
nẻo
Loạn ly đời thế, mấy ai vui
Tôi về xứ lạ, làm bồi Mỹ
Quên chuyện long đong, khóc lẫn
cười
Nhân có bạn từ Phan Thiết tới
Hỏi tin người hát dạo
thương binh
Mới hay anh đă ôm đàn chết
Giữa
một đêm mưa trước mái đ́nh
Buổi
đó v́ đời làm lính trận
Tàn cơn
lửa loạn chịu thương đau
Nay trơ
nắm đất mồ vô chủ
Định
mệnh ǵ đâu quá nghẹn ngào!
(Chuyện
Người Thương Binh)
Đọc hai câu thơ:
“Mới
hay anh đă ôm đàn chết.
Giữa một đêm mưa
trước mái đ́nh”,
ḷng xót xa buồn. Cô bán quán ngày
xưa, nếu c̣n sống sau cuộc chiến, nay trở
thành bà nội, bà ngoại. Nếu may mắn có
được gia đ́nh ấm êm, sống trong hạnh
phúc, cô có c̣n nhớ anh lính trẻ đă gặp trong thành
phố buồn, của một thời lặn lội mưu
sinh?
* * *
Tháng 4, thành phố
-Con hăy
giữ 100 đô la này, để dành mua cho ba cái ḥm,
để khi chết đi, ba được nằm trong
ṿng tay yêu thương của
đồng bào ḿnh ở Hải Ngoại.
Đó là chuyện ở VN.
C̣n ở hải
ngọai, xin bạn hăy nghĩ đến những
ngươi lính ǵa của chúng ta, dù đă mỏi gồi,
chồn chân, vẫn c̣n gĩư nguyên tấm ḷng với
các chữ Danh Dự, Tổ Quốc, Trách Nhiệm.
Xin hăy giúp họ đi nốt con
đường mà họ đă chọn từ thời trai
trẻ và sẽ theo họ về cơi
vĩnh hằng. Đó là trách nhiệm bảo vệ quê
hương mà họ chưa làm tṛn, là niềm đau, là
nỗi thao thức khôn nguôi:
-Mày nh́n
mưa, mày nhớ ǵ không nhỉ?
Tao nh́n
mưa, tao cứ măi nhớ rừng.
Rừng
của quê hương những ngày khói lửa.
Tao,
bao năm dài cặm cụi hành quân.
Mày nh́n
mưa, mày nhớ ǵ không nghỉ?
Tao nh́n
mưa, tao nhớ quá bạn bè…
Hay:
-Món nợ
tang bồng bao giờ trả nổi
Mất
cả sơn hà, cứ ngỡ như mơ! (Thơ Trạch Gầm)
Hoàng Minh Thúy
(báo Xây Dựng số 703 phát hành ngày 26/3/11)