CUỘC
T̀NH LỚN CỦA TÔI
Hay
Một
ông thầy giáo nghiêm túc nói chuyện t́nh
Bài nói chuyện của GS
Nguyễn văn Trường
tại Hội Cựu Giáo
Chức Houston, ngày 28 tháng 2, 2010
Xác định đề tài:
Đó là một cuộc t́nh của tôi,
nhưng không phải là
một cuộc t́nh thông tục, hay lăng nhăng, thoáng qua rồi quên lăng.
Cuộc t́nh này, tôi trải nghiệm suốt gịng
đời. Giờ đây, đă trên hai thập niên duyên măn,
tuổi đă vào bát thập, mà âm vang thời ấy như
mới hôm qua. Thế mới nói, trong một giới
hạn nào đó, cuộc t́nh
này là lẽ sống, là
lư sống, cũng là
nguồn sống của tôi. Tôi
vui buồn, tôi lớn mạnh, hay tôi lên voi xuống chó
đều do mối t́nh này mà
ra
Cho nên, gọi là mối t́nh lớn.
Gọi là lớn cũng v́ môi
trường trải nghiệm rộng lớn, và cũng v́
bên đó c̣n có một cuộc t́nh nhỏ đi song song, nhỏ v́ chỉ có hai—hay nói
theo Kinh Duy Ma Cật, hai mà là một, một thế mà là hai.
Đó là t́nh với người vợ, người t́nh,
người tri kỷ và là mẹ của các con tôi.
Nhưng đó là chuyện khác.
Trở lại vấn đề, tôi
ở đây là một ông thầy giáo, trong vai tṛ một ông giáo nghiêm túc, và nghiêm túc nói
chuyện t́nh
Nói như vậy, v́ cũng có—dầu là
không nhiều—những ông giáo không nghiêm túc. Và cũng có
những lúc mà con người nghiêm túc nhất khi ăn nói hoặc khi có thái độ hay
hành động lại
không nghiêm túc. Với một cử tọa chọn lọc
như hôm nay, tôi tự nhủ phải biết trân trọng
nghiêm túc thưa tŕnh.
Thưa rằng:
Một. Những điều tôi nói ra đây
đều là thật, những sự việc thật,
những con người thật, những sinh hoạt
thật có xảy ra, những lời nói, suy nghĩ, xúc
cảm thật, tất tất đều thật. Thật
100%.
Hai. Cái thật không có đạo. Nó không biết đạo lư, nó
không vô luân, nhưng trong một mức độ nào đó,
có thể nói nó phi luân; cho nên không thể buộc rằng nó
“phải đạo”. Hoặc là thật hoặc không
thật. Điều “phải đạo” có thể
thật, nhưng muốn cho cái thật “phải
đạo” là đă có ư dối ḿnh, dối người,
muốn biến nó thành một cái ǵ đó cho “phải
đạo”, “thuận theo luân thường đạo lư”;
nói cách khác, nó không c̣n là nó nữa.
Vậy, nghiêm túc không có nghĩa là
“phải đạo”, mà là thật. Tôi có đắn đo,
có lựa lời, v́ thật không có nghĩa là thô lổ,
trắng trợn, thẳng thừng, bất chấp mọi
sự, v́ tôi mong được lắng nghe, lưu ư,
để tâm, cũng v́ tôi biết không lời nào diễn
tả được hết t́nh ư, càng không diễn tả
đúng cái thật.
Ba. Con người vốn là t́nh. T́nh
người—dầu chỉ là của một thầy
giáo—đa dạng, phong phú, vô cùng, vô tận. Mà nói chuyện t́nh th́ như
kể chuyện Đông Châu, không biết bao giờ mới
dứt. Cho nên xin Chị
Chủ Tịch trước khi hết giờ vài phút, ra
dấu, bảo tôi kết thúc.
Tóm lại, tôi sẽ
thuật lại ở đây cuộc đời thầy
giáo của ḿnh, mà tôi gọi là cuộc t́nh lớn, v́
nghĩ cho cùng nó vốn là t́nh: t́nh
thầy tṛ, t́nh đồng nghiệp, t́nh đồng
sự, t́nh với người phụ huynh, t́nh với ngôi
trường, với môi trường. Nói là t́nh v́ nó bao gồm : bực dọc,
bực bội, lo âu, trăn trở, hoang mang, trông chờ,
hồi hộp, muốn và không muốn, thất vọng và hi vọng. V́ nó ẩn tàng
những ch́m nổi trong vui buồn, hỉ nộ, có lúc
như trăm mối buộc ràng, mâu thuẩn chằng
chịt, nhưng cũng có khi lên hương, vui mừng
phấn khởi có được giác cảm đă thoát qua
khổ nạn, đạt được một thành
quả, thọ lảnh một hồng ân, một phép
lạ.
Cuộc sống thầy
giáo của tôi có thể chia ra làm 5 giai đoạn :
1.
1954-57 pionicat[1]
ở Pháp, với từ 4 dến 8 giờ dạy một
tuần.
2.
1957-63 ở Viện Đại Hoc Huế.
3.
1963-75 ở Viện Đại Học Sài
G̣n
4.
1975-1988 ở Trường Đại
Học Sư Phạm Tp Hồ Chí Minh.
5.
1988 đến giờ: hoài niệm về
một cơ duyên—cơ duyên làm thầy giáo—đă mất.
Mỗi khúc nho nhỏ
của một giai đoạn là cả một quyển
truyện Đông Châu
Chuyện Đông Châu
Liệt Quốc—hết hồi nầy đến hồi
khác— liên miên vô tận. Cho nên người kể chuyện
t́nh phải ư thức cái lộn xộn, lung tung, không logic,
không đầu đuôi, để có một tŕnh tự
dễ theo dơi, đó cũng là một cách tỏ sự thành
kính, trân trọng của ḿnh với thính giả. Cho nên, tôi
phải lựa chọn, và noi theo người xưa, tôi
tuân theo qui luật 3 đơn vị của các nhà viết
kịch Pháp thế kỷ 17, đó là ; một chủ
đề hay hành động[2],
ở chỉ một nơi chốn[3]
và trong một thời khoảng nhất định[4].
Nơi chốn và thời khoảng : Những ngày
tháng đầu tiên của tôi ở cố đô Huế,
khoảng tháng 10,1957, là thời điểm các sĩ
tử chuẩn bị thi tuyển vào Trường Cao
Đẳng Sư Phạm Huế và ngày khai trường
của Viện Đại Học Huế
Chủ đề là t́nh. T́nh là cảm
nhận những gút mắc trong những quan hệ qua
lại, hai hay nhiều chiều. Trăm hoa đua nở,
một nguyên duyên đă khởi th́ trùng trùng duyên khởi. Bên
cái chung chung của nghề dạy học, có cái riêng tư
của tôi. Mỗi
người một vẻ, chẳng có một cái tôi nào giống
một cái tôi nào. T́nh tôi có những
chuyện, sự việc đặc thù, với
sắc thái đặc thù. Nói đặc thù v́ chúng duy
nhất không giống ai trong chủng loại của
chúng. Tôi mong diễn tả
được cái chung ở mọi nơi mọi
chốn—hoặc cái chung của Huế thời bấy
giờ--và cái riêng không giống ai của tôi. Nếu tôi không
diễn tả được chỉ là v́ tôi thiếu văn tài, không
biết ăn nói, chớ không v́ thiếu thành tâm.
Thân bài :
1. V́ sao tôi về
Huế ?
11. Tôi muốn trở vế VN. Gia đ́nh, mẹ cha,
anh chị em là cái nôi, là nguồn của t́nh thương,
nguồn cung cấp sinh lực và sự lớn mạnh
của con người ; nhưng trong một mức
độ nào đó gia đ́nh cũng là lực lượng
kềm kẹp, giữ con người trong nề, trong
nếp, trong gia đạo, gia phong. Bảy năm du
học, xứ lạ quê người, xa cha mẹ, anh
chị, ở một pḥng trọ, một ḿnh một
chắt, trên không một ai trông coi, dưới chẳng có
ai để ư, ra đường không có bác cả ở xóm trên, chú bộ hay ông
hương thân, hương hào xóm dưới. 7 năm,
không tên tuổi, không ai để ư, muốn làm ǵ th́ làm, tôi
có lắm tự do.
Trở về--về
VN—là trở về với trật tự gia đ́nh, trên c̣n
có mẹ, anh chị, là khép ḿnh trong cái khuôn cái thước,
khuôn thước gia đ́nh. Thêm vào đó, c̣n cái khuôn
thước con người có học thức của làng
xóm, một khuôn thước chung chung. Thương th́ trái
ấu cũng tṛn, ghét th́ bồ ḥn cũng méo. Tôi nguyện
sẽ làm mẹ tôi vui ḷng, và gia đ́nh tôi hănh diện
với làng xă thôn xóm.
Nhưng tôi cũng muốn giữ nếp
sống tự do của người du học sinh. Ở
Pháp lúc bấy giờ, để được là giáo
sư trung học th́ hoặc là phải đậu thạc
sĩ, hoặc là bi-admissible, hoặc là đậu chứng
chỉ năng khiếu dạy trung học (gọi tắt
là CAPES[5]).
Thi thạc sĩ là thi tuyển, không chắc đă qua,
nhưng CAPES toán th́ quá dễ, Trường Khoa Học
Toulouse năm 1956, có 11 thí sinh, chỉ có một không qua
được vấn đáp. Tôi đă có 3 năm Pionicat,
nếu đỗ CAPES, tôi được vào ngay chánh
ngạch giáo sư Trung Học, không phải qua hai năm
tập sự. Nói chung, trong
những năm 1950-60, người sinh viên toán, lư hoá có
được đôi ba chứng chỉ không khó khăn t́m
việc làm. Đây cũng là một điều muốn
giữ tôi ở lại Pháp.
Tôi vừa muốn là tôi,
tự tung tự tác, thoát ly khỏi những buộc ràng
của gia phong, của lệ làng; đồng thời
cũng muốn được là đứa con ngoan của
gia đ́nh và thôn xóm. Hai ư
muốn này là hai áp lực đè nặng trong suy nghĩ
của tôi. Tôi nhận thức rơ
ḿnh ở trước ngă ba đường, đi bên nào cũng chết. Tôi thấm
thía câu kết luận của Don Rodrigue, trong Le Cid
« Des deux côtés le mal est infini. Đông hay Tây, chọn bên nào,
cái đau cũng vô tận ». Ba tôi đă qua đời
năm 1954, ba năm trước, chờ tôi về mà không
được. Về nhà là
khai tử cuộc sống tự tung tự tác. Ở
lại Pháp, tôi sẽ không bao giờ tự tha thứ cho
ḿnh được.
Tôi dứt khoát chọn
con đường sẽ được kềm kẹp,
con đường của đứa con ngoan, của con
người có học, biết có trước có sau, con
đường mà tôi sẽ mất ít nhiều cái rất là
tôi. Tôi sẽ sống một cách thuận thiên, phải
đạo; thuận ḷng trời, vừa ḷng người.
12. Huế là duyên lành duy nhất đến với tôi.
Tôi gởi đơn xin làm assistant[6]
ở Trường Đại
Học Khoa Học Sàig̣n.
Bộ Giáo Dục đáp rằng tôi có hai lựa
chọn: hoặc dạy ở Trường Petrus Kư với
tư cách là giáo sư trung học đệ nhị cấp,
hạng 5, chỉ
số lương 470, hoặc là giảng nghiệm viên
hạng 5, chỉ số lương 550 ở Đại
Học Khoa Học Huế.
Trời thương nên đă mở cho tôi con
đường về xứ Huế. Nếu nói là duyên, th́ Huế lúc bấy giờ, với
tôi là duyên lành, duyên đẹp. Trước mắt, mẹ
tôi và các anh chị tôi sẽ hài ḷng v́ tôi đă trở
về, gia đ́nh đề huề như xưa, và hănh
diện v́ tôi có chút đổ đạt. C̣n tôi, tôi
nghĩ : sau những « tuần trăng mật »
với gia đ́nh, tôi sẽ trở
lại chính tôi trong một vai tṛ mới: Ở Huế, xa
nhà, tự do, thoải mái.
Bối cảnh có đổi thay, nhưng tôi vẫn là
tôi. Pion[7]
và assistant có những điểm giống nhau: pion là nhân viên
thấp nhất trong hàng giáo huấn của một
trường trung học, giảng nghiệm viên cũng là
nhân viên giảng huấn hạng chót của Đại
Học; mỗi hai năm pion phải đỗ một
chứng chỉ, assistant phải làm một luận án
tiến sĩ. Cả hai đều nửa là sinh viên,
nửa là nhân viên giảng huấn.
Tôi có vào thư viện
t́m sách học hỏi về cố đô Huế. Lúc bấy
giờ chưa có internet, tài liệu rất ít h́nh ảnh,
cái biết của tôi về Huế cũng như về
nhiều địa danh khác thường thường là
trừu tượng.
Trong lúc đó, tôi lại
được một thơ dài của Linh Mục Viện
Trưởng hứa hẹn nhiều quyền lợi,
hầu hết là liên quan đến đời sống và
tiện nghi vật chất và v́ có cái tật lạc quan, tôi
nh́n Huế là giải pháp tối ưu ; người
hiền gặp lành, Huế là phước lớn Trời
ban. Tôi không ngây thơ nghĩ con đường sẽ
trải thảm đỏ. Tôi
ư thức rơ rằng về VN, mọi khó khăn mới
bắt đầu. Tuy nhiên Sông Hương, Núi Ngự,
đất thần kinh, xứ ngàn năm văn vật
chỉ có thể là nơi
đất lành, người đẹp. Cọng thêm cái lạc
quan tuổi trẻ và cái trí tưởng tượng phong phú
của tôi, tôi thật sự bị cuốn lôi. Tôi mạnh dạn và phấn
khởi chọn về Huế.
2. Cảm giác ban
đầu.
Lô Sơn yên tỏa
Triết Giang triều[8],
Vị đáo sinh
b́nh hận bất tiêu
Chưa đến
Huế, chưa dừng chân bên núi Ngự, chưa
được ngắm cảnh Sông Hương,…, thỉnh
thoảng được nghe bạn bè tán tụng: Huế
thơ, Huế mộng, Huế đẹp….th́ cũng có cái
ǵ đó làm cho nếu không một lần được
đến Huế th́ ắt cũng «sinh b́nh hận bất
tiêu». Cái mà ḿnh chưa được, danh lam thắng
cảnh mà ḿnh chưa đến, ḿnh háo hức muốn có,
muốn đạt, muốn đến, ḿnh h́nh dung nó muôn
màu muôn vẻ, thần tiên chi nhất thế. Và tôi
đến Huế với tâm trạng nầy.
Thế nhưng,
đến Huế rồi, tôi có những ngỡ ngàng, lo âu,
và cũng có thể nói là thất vọng.
Sau đây là một
vài điểm mà tôi c̣n nhớ.
1.
Thành Vauban và
ngọn đồi trọc
Trong
một cảnh thiên nhiên, thơ mộng như vậy, nhà
vua lại xây lên một thành lũy, kiểu Vauban. Hoàng cung được xây bên trong
một thứ đồn bót, vua như sợ dân, bên ngoài là
dân chúng bên trong là triều đ́nh, vua và dân cách biệt.
Điều nầy làm tôi nhớ
một chuyện ngắn của Alphonse Daudet, La Mort du
Dauphin—Cái chết của Hoàng tử. Hoàng tử c̣n thơ
dại, nhưng đau nặng, sắp chết. Hoàng tử lại tin rằng
một hoàng tử không thể chết như vậy
được, và xin cho triệu lính tráng và kéo súng
« canons » chung quanh thành để chống thần
chết.
Chiến lủy Maginot, từng
là niềm hănh diện
của người Pháp, đă là vô dụng trong thế
chiến thứ hai, th́ cái thành tŕ nhỏ bé Vauban xứ
Huế th́ làm sao có
thể bảo vệ được cái Đại Nội
hay hoàng cung nhỏ bé của nhà vua. Vả lại đă
từ lâu, nước đă mất, đă phân chia ba
đoạn. Từ lâu nhà vua đă rong chơi ở Châu Âu,
thành Vauban như một thách thức vô duyên.
Núi Ngự là một ngọn đồi, và là đồi trọc. Gọi là
núi có lẽ do lệnh vua, hoặc v́ nó làm b́nh phong cho
Đại Nội, hoặc v́ chúng ta có thói quen nh́n bất
cứ cái ǵ của ḿnh đều vĩ đại.
Đầu th́ có tóc, núi đồi có cây. Cạo trọc
đầu, làm trọc núi đồi là do người. Tôi không
tin đồi trọc, núi trọc là đẹp hơn núi
đồi có cây xanh bóng mát. Tôi
cũng nghĩ : núi đồi trọc là mầm móng làm cho đất chùi, cho
tai họa. Chỉ có con người là tự gieo họa cho
chính ḿnh.
2.
Huế, thành
phố thánh thiện.
Nói cho đúng th́ lúc
bấy giờ, Huế là một thành phố lành mạnh,
chỉ có những thú vui lành mạnh. Lành mạnh
đến độ thánh thiện. V́ thế mà Huế có
thiếu hẳn chất ngừời. Có thể v́ vậy
Huế là một thành phố buồn. Nói quá, nhưng không
quá đáng bao nhiêu, Huế là một thành phố chết,
chết trong những giờ giấc nhất định
nào đó trong ngày. Nếu không có sinh viên học sinh, th́
Huế chỉ thoi thóp như một tỉnh lẻ của
Hoàng Triều Cương Thổ lúc về chiều hoặc
về đêm.
3.
Cha con tôi
Cha ở đây là Linh Mục
Viện Trưởng của tôi.
Lần đầu tiên gọi
Ngài bằng cha, tôi không thấy có chi khó khăn, nhưng
xưng ḿnh là con, th́ tôi có ngượng ngập, cảm
nhận trong tôi một cái ǵ đó bất ổn. Nhưng
quanh tôi, ai ai cũng cha cha con con với Ngài, tôi cũng
phải như mọi người, nhập gia tùy tục.
Cũng nhờ đó mà về sau, khi tiếp cận với
các sư săi, tôi xưng con rất ngọt.
4.
Triều Đ́nh
của Cha
Với Triều
Đ́nh của Cha Viện Trưởng —quí vị chủ
sự, nhân viên các pḥng ban—tôi ngạc nhiên, lo ngại,
cảm nhận ḿnh lạc vào một thế giới khác: Ai
ai cũng ăn mặc nghiêm túc; chào hỏi, cử chỉ,
thái độ, ăn nói tất tất đều nghiêm túc; lễ nghĩa đâu ra đó.
Âu đó cũng là
một điều tốt đẹp.
Có điều là ai
ai cũng gọi tôi là giáo
sư. Thật là không nên.
Bên phố, v́ không
biết chúng tôi hầu hết chưa có ai có tước
vị giáo sư, hay nghe tiếng đồn Viện
Đại Học sắp khai giảng, người bán buôn
hay lao động ngộ nhận đă đành, nhưng ngay trong Viện
Đại Học, quí vị đồng sự với tôi
đều phong cho chúng tôi cái hàm giáo sư. Tôi
được trân trọng
gọi là giáo sư, một là giáo sư, hai cũng là giáo
sư. Tôi cảm thấy bất an, bất ổn, khó
chịu. Vô t́nh tôi chiếm nhiệm chức vị và
điều nầy không chấp nhận được.
Rồi một hôm,
Linh Mục Viện Trưởng bảo tôi đảm
nhiệm chức vụ Khoa Trưởng Trường
Đại Học Khoa Học. Đó là giọt nước
cuối cùng buộc tôi phải thưa với Ngài
rằng: «Thế th́ con đường sự nghiệp
của con hoàn tất chỉ trong vài tháng: Mấy tháng
trước đây c̣n là sinh viên cao học, rồi
được tuyển dụng làm giảng nghiệm viên
hạng 5, khi nhận nhiệm sở th́ biết ḿnh là
sẽ đứng lớp giảng bài như một giáo
sư, lại được nhiều người tặng
cho tước hiệu giáo sư, rồi giờ đây, Cha
cho làm Khoa Trưởng. Thật quá nhanh?» Tôi tiếc rằng cách nói nửa
đùa nửa thật nầy đă làm Ngài khó chịu. Tôi
cảm nhận Ngài cũng hiểu như tôi rằng tṛ
chơi tước vị không nên có, và đă có th́ không
thể kéo dài. Ngoài ra, Ông Tổng Thư Kư, nhỏ
người, nhỏ tác, cùng trang lứa với tôi và cũng như tôi, vừa
rời ghế nhà trường không lâu, nhưng lớn
hơn tôi nhiều trong vai tṛ mới của Ông. Nói theo
người Pháp, th́ Ông hoàn toàn được thổi
phồng. Và tôi cũng có cảm tưởng ông Viện
trưởng của tôi cũng như vậy. Điều
nầy không làm cho tôi lạc quan.
Thiết nghĩ
cứu cánh trong sự nghiệp dạy học vẫn là
tước vị giáo sư, chỉ có khác là nó tới không
phải lúc, trong lúc chúng tôi chưa hội đủ
những điều kiện qui định, và tâm thức
chúng tôi chưa sẵn sàng. Trong thâm tâm, tôi cảm nhận:
sự trân trọng và cảm t́nh của quí vị
đồng sự của tôi là thật. Điều nầy có làm nhẹ
cái mặc cảm «giáo sư» của tôi, nhưng cũng
buộc tôi phải nghĩ đến những trách
nhiệm nặng nề đang chờ đợi.
Trong hơn một
niên học đầu, Cha Viện Trưởng và tôi có
những va chạm làm cho quan hệ xấu đi. Cuộc
sống của tôi v́ thế cũng bất ổn. Nhưng không
lư mối t́nh đầu của tôi, v́ những chuyện
lăng nhăng như vậy, mà sớm vỡ tan ?
Vả lại cuộc sống vốn là là gặp
gỡ--gặp gỡ tha nhân, vạn vật; cho nên ma sát, va
chạm là đương nhiên. Cuộc sống cũng
vốn vô thường, đổi đổi thay thay, không
ngừng biến hoá ; cho nên,
bất ổn cũng là đương nhiên. Vậy,
phải xem va chạm, bất ổn, những bất
như ư trong nhất thời là những cơ duyên giúp
ḿnh tôi luyện trí tuệ và
tính t́nh. Một cuộc
sống không vấn đề, không thách đố, chỉ
có thể là môt cuộc sống đơn điệu,
buồn tẻ.
Tuổi trẻ có
trăm ngàn lư do để biện minh sự dấn thân
của ḿnh.
5.
Thư Viện và
lực lượng giảng huấn.
Thư viện là
thư viện chung cho tất cả các khoa, mới h́nh thành
nên c̣n nghèo nàn. Riêng môn toán, thư viện chỉ có hai tác
phẩm cho sinh viên năm đầu đại học, và
mỗi loại chỉ một bản. Về nhân viên giảng huấn môn
toán, th́ cũng có hai người—anh Nguyễn Văn Hai và
tôi— cả hai đều là cá mè một lứa, chẳng có
ai có cái bằng tiến sĩ, chẳng có ai ở trong danh
sách những người có năng khiếu dạy
đại học. Mà anh Hai lại không là nhân viên Viện
Đại Học; anh c̣n là Đại Diện Bộ Giáo
Dục, trách nhiệm toàn bộ hệ thống Trung
Tiểu Học và B́nh Dân Giáo Dục Miền Trung. Về các
môn khác ở các khoa khác, tôi có cảm giác cũng như vậy.
Vài tháng sau khi khai
giảng, các nhân viên giảng huấn khác mới lục
tục về. Hầu hết trong khoảng chung quanh 30
tuổi, đa số từ Pháp, cử nhân, cao học,
kỹ sư, tiến sĩ luật, tiến sĩ
đại học, tiến sĩ đệ tam cấp, và
hầu hết chưa có một kinh nghiệm nào
đứng lớp ở một đại học. Nói
chung, chúng tôi, dầu có thêm người, nhân sự vẫn mỏng
(ít người), khả năng và kinh nghiệm đại
học khiêm tốn, nhưng phải đảm nhận
một trách nhiệm quá to tát: xây dựng nền tảng cho
một Đại Học có nội dung, có qui củ, ḷng tin
ở sinh viên, phụ huynh, và người dân không những
của B́nh Trị Thiên, Miền Trung, mà cả nước. Thật
là cả một biển Đông để uống.
6.
Ông Cậu, chính
quyền
Tôi đă từng
ở Cần Thơ thời kỳ Ông Năm Lửa c̣n hét
ra lửa, ở Mỹ Tho lúc Ông Le Roy c̣n là Ông Cọp vùng
B́nh Đại-An Hóa. Tôi có được vài tháng ở ngay
Sàigon nhưng được căn dặn không
được qua bên kia Cầu Chữ Y, lănh cư của
Ông Bảy Viễn. V́ vậy tôi
luôn luôn cảm thấy bất an khi trong vùng tôi ở
có một vị anh hùng Lương Sơn Bạc.
Đôi ba tháng
với gia đ́nh, tôi có dịp đi Cần Thơ, Vĩnh
Long, Vĩnh B́nh, Di Linh, Đà Lạt, Nam Vang, Battambang,…, tôi không
phải thận trọng trong lời nói, lo ngại
những phạm úy mà rủi ro đến tai các «ngài»,
phải lụy đến thân.
Chỉ trong ṿng ba
năm thôi, 1954-57, quân đội Cao Đài, Hoà Hảo, B́nh
Xuyên, Le Roy được qui về một mối vào Quân
Đội Quốc Gia, thật là như chuyện thần
thoại, Trời Đất an bài.
Tuy nhiên, Huế
lại c̣n có Ông Cậu.
Ông Cậu,
người em của đương kim Tổng Thống,
là một vị sứ quân mà tiếng đồn làm ḷng
người khiếp sợ.
Trước khi đi Huế, các anh tôi kỹ
lưỡng dặn ḍ: phải
cẩn thận trong lời ăn tiếng nói, Huế
không phải là Sài g̣n, Huế có Ông Cậu.
Chính quyền
địa phương là yếu tố thứ hai làm tôi e
ngại: Quảng Trị, Thừa Thiên là hai tỉnh
địa đầu, xa Thủ Đô. Càng xa Trung
Ương, th́ thông thường luật lệ địa
phương dẩm trên luật vua phép nước, nhất
là khi t́nh h́nh an ninh vừa được ổn
định mới vài năm.
Trong thực
tế, có thể quí vị ấy cũng không dữ dằn
như lời đồn đăi, nhưng luật
nước không có hai, và đă là luật pháp, th́ không
thể có cái tùy tiện, tùy hứng, tùy tâm thái nhất
thời của một « ông kẹ[9] »
nào đó trong vùng.
Ngay trước khi
về VN, tôi đă tự nhủ, không nói, không bàn, không làm
chính trị, không liên hệ đến các đảng phái.
Tôi cũng nghĩ tôi sẽ có nhiều may mắn yên thân
trong trách nhiệm khiêm tốn của một giảng
nghiệm viên hạng chót. Nhưng làm giáo sư—dù là giả
định, hay giả hiệu—th́ có chút danh, chút nổi
đ́nh nổi đám; theo đó có khả năng
được cấp trên lưu ư, hay đoàn thể khuyến dụ, và không khéo
sẽ bị cuốn vào những phiền toái đảng
phái, bên nó bên ta, vô bổ mà hệ quả khó lường.
V́ những
điều vừa nêu, tôi không có nhiều hảo cảm
với Ông Cậu.
7.
Suy tôn Ngô Tổng
Thống
Thường th́ vào
dịp Tết, tôi được phái vào tiếp xúc với
Bộ Giáo Dục v́ đôi chuyện của VĐH ;
đó cũng là cơ duyên cho tôi về thăm nhà. Sau cái
Tết đầu tiên, trở về Huế, tôi
được một đồng nghiệp của tôi
thuật lại việc đi ăn giỗ trên nhà Ông
Cậu và chúc Tết Tổng Thống. Ông thuật lại
rằng tất cả--các ông Bộ Trưởng, Tổng
Giám Đốc, Giám Đốc, Trưởng cơ quan, Dân
Biểu Quốc Hội,..—những người có mặt
hôm đó đều đứng dậy ca bài « Ngô
TổngThống », Tổng Thống cũng đứng
đó, tự nhiên. Ông nói thêm rằng ông cảm thấy
nhục nhă. Riêng tôi, hồi c̣n học tiểu học, tôi
đă sớm thuộc bài « Maréchal Nous Voilà », suy tôn
Thống chế Pétain. Bây
giờ tôi vẫn c̣n nhớ lời ca .
Hết thời Pháp
thuộc, tôi nghĩ trẻ con VN không c̣n bị những hành
hạ tương tự.
Nhưng rồi lại có một thời khoảng
năm ba tháng, người ta ca bài Hồ Chí Minh Muôn Năm.
Giờ th́ «Ngô
Tổng Thống, người về đây », và không
phải là trẻ con ca hát suy tôn, mà cấp lănh đạo
quốc gia, và Tổng Thống đứng đó « khiêm
cung » chấp nhận. Rồi không hiểu sao tôi
thấy có một ǵ xót xa, lợm giọng. Tôi hiểu là
đông đảo những người như ông bạn
tôi phải nhép miệng theo người--ở cảnh
dở khóc, dở cười—chớ mới vừa về
nước đôi tháng, có thuộc, có biết mô tê ǵ
đâu. Tôi cảm thấy
thương cái thân phận người lănh đạo,
sự can đảm và chịu đựng cùng tột
của họ, của cả những người thực
ḷng ca, và những người qua sông phải lụy đ̣
3. Tôi thích ứng
với cuộc sống Huế.
Tuy nhiên, cái ǵ
rồi cũng quen. Cái thành Vauban xấu xí đó, ngọn
đồi c̣i cọc đó,
thế mà hay, nghĩ cho cùng không có tiểu nhân làm ǵ có
đại trượng phu, bên cái xấu, cái đẹp
chỉ có thể tăng thêm nét đẹp.
Đẹp xấu,
hay dở lắm khi tùy thuộc tâm thái của người
đời.
Tôi không là một
ngoại lệ. Nhất là khi đă tiếp cận với
người đẹp xứ Huế. Huế không biết
tự lúc nào đă trở thành của tôi, mà là của tôi th́
cái ǵ cũng đẹp.
Sau đây là những thách đố hay
thuận cảnh giúp tôi hội nhập vào môi trường
Huế
1.
Lại nói về Chính quyền và Ông
Cậu
Trên đây, tôi có
vinh danh một thành quả tối quan trọng của chính
quyền: sự an sinh của Đồng Bằng Sông
Cửu do sự thu nhập
được quân đội bán quân sự của các lănh
chúa. Những ông lănh chúa và lực lượng quân sự
của các ông là những ổ khủng bố hợp pháp,
làm khiếp sợ tầng lớp dân chúng Miền
Đồng Bằng Sông Cửu.
Và cũng nhân đó
tôi ghi thêm rằng tôi không nh́n Ông Cậu với thiện
cảm. .
Tuy nhiên, nói đi rồi cũng phải nói lại:
từ ngày khai giảng đến cuối triều Ngô,
VĐH Huế và cả chúng tôi, được che chắn
không phải chịu đựng các ngọn gió chính trị,
đảng phái, phong trào. Một lần, có lệnh Trung
Ương buộc chúng tôi phải vào Phong Trào Cách Mạng
Quốc Gia. Chúng tôi có thưa tŕnh thiệt hơn
với cha VT, rồi mọi
việc được ch́m trong quên lăng. Một lần khác,
chúng tôi được triệu tập đi học
tập chính trị ở Suối Lồ Ồ cùng với
Đại Học Sài g̣n, chúng tôi đă có lư do chính đáng
không dự; Bộ Giáo Dục có lớn tiếng dọa
dẫm, nhưng rồi cũng bỏ qua.
Tôi có cảm giác rơ
rệt là nhờ Ông Cậu, và cha VT làm tấm b́nh phong
vững chắc, che chắn cho. Điều nầy vô cùng
cần thiết và quí báu cho bất cứ một Trường
Đại Học nào, nói riêng cho VĐH Huế sơ sanh
của chúng tôi.
2.
Vài nét về
nếp sống văn hoá Huế
a/ Món ăn Huế,
dễ ăn nhất, b́nh dân nhất, có lẽ là bún ḅ
Huế, và họ hàng của nó như bún riêu, bún ốc,
cơm hến, bánh canh,..Bánh canh Huế không giống bất
cứ bánh canh nào của Miền Nam, nó là Huế,
« Huế chay » như giọng nói các cô, các bà Huế.
Tuy nhiên, điều mà tôi muốn ghi nhận ở đây
là :
* Hầu hết
những người bán là các bà, các cô—suốt thời gian
ở Huế--tôi chưa gặp một ông bán gánh bún ḅ, bún
riêu …
* Các bà, các cô, tuy
buôn gánh bán bưng, nhưng đều mặc áo dài, như
thách thức cái nóng cháy da của mùa gió Lào, và như nhắn
nhủ với khách lăng du, trong cái nghèo, cái khó, trong lam lũ
chịu nắng dầm sương, lúc nào cũng phải
giữ cái nề cái nếp. Đây là một điểm son
cho phái đẹp chốn thần kinh. Tôi ngạc nhiên và
khâm phục.
Điều sau cùng
nầy buộc tôi nghĩ :
* Cách phân chia
nhiệm vụ giữa chồng và vợ khác nhiều
với miền đồng bằng sông Cửu Long.
* Người
phụ nữ Huế đảm đang quán xuyến không
chỉ bên trong mà cả chịu khó phong sương, cực
nhọc, để có thêm lợi tức cho gia đ́nh.
* Trong lam lũ,
không quên thể diện, phong cách của ḿnh.
* Huế là xứ
của lễ nghĩa, thuần phong mỹ tục.
Mà thật như
vậy.
Người
Huế không ăn mà thời hoặc xơi,
họ không ngủ nghỉ mà ngơi. Nói ăn,
ngủ là thô. Xứ ngàn
năm văn vật, có khác với đàng trong, đất
mới, của những con người khẩn hoang, cày sâu
cuốc bẩm. Tôi ngỡ ngàng v́ đă chọn lập nghiệp
ở xứ ngàn năm văn vật nầy, mà lại mang
trong tự thân một nền văn hoá lai căn, lai Miên,
lai Tàu, lai người Châu Giang, lai thêm văn hoá Pháp mà có
một thời bị xem là man di.
Chúng tôi, một đám trẻ lại
tiếp tục gọi nhau bằng mầy tao mi
tớ--toa-toa, moa, moa—quái đản không giống ai.
Chúng tôi phải
bỏ một số thói quen cũ, tập một số
thói quen mới, tập cho quen với ngôn từ
Huế--không chỉ ngừng ở mô, tê, răng, rứa—và
giọng nói của người Huế.
Trong ḍng hoài niệm này, tôi phải ghi
thêm :
3.Cơ ngơi Viện Đại Học
hay cái đẹp của người dân và chánh quyền
Huế.
Rơ ràng là chính
quyền địa phương và tầng lớp dân chúng
dành cho Viện Đại Học nhiều ưu tiên và
cảm t́nh đặt biệt.
Cơ ngơi của Toà Đại Biểu Chính
Phủ trở thành toà Viện Trưởng, khách
sạn lớn nhất ở
Huế được dành cho
các lớp học và pḥng thí nghiệm, trụ sở Ngân Hàng
Đông Dương giờ đây là Thư Viện, tầng
trên là pḥng trú tạm cho thành phần giảng huấn. Khu
Toà Khâm Sứ th́ dành để xây cất Trường
Đại Học Sư Phạm và Trường Trung
học thí điểm, mà sau nầy gọi là Trường
Kiểu Mẫu Huế. Nói chung, thiên thời th́ chưa
thấy, nhưng địa lợi và nhân hoà th́ rơ ràng, tôi
cảm nhận những điều này rơ ràng hơn trong
những dịp tháp tùng anh Nguyễn văn Hai « thăm
dân cho biết sự t́nh » hoặc LM Viện
Trưởng đi thăm các cha di cư ở Đà
Nẵng, đi viếng Nhà Thờ La Vang, quận huyện
lân cận.
Chúng tôi có tuổi
trẻ, thành tâm, thành ư, và nhất là không có con
đường nào khác hơn là tiến tới. Trong
thực tế, chúng tôi thực hiện một cách thận
trọng những ǵ thu lượm được ở
Pháp, và ở Sài g̣n. Công việc không khó như tôi h́nh dung;
đông đảo sinh viên của tôi đều sử
dụng được sách giáo khoa Pháp. Về sách tham
khảo, tôi phải bằng ḷng với tủ sách của
anh Hai. Nhà sách Lê Phan ở Sài g̣n lúc bấy giờ
tương đối có đầy đủ sách giáo khoa
về khoa học, ít nhất là cho các chứng chỉ
dự bị. Thể thức mua sách của nhà nước
ḿnh quá chậm, nhưng chậm vẫn c̣n hơn không có, hay
phải mua tận gốc.
3.
Sinh viên
Sinh viên gồm 3
thành phần: học sinh Quốc Học, Đồng Khánh và
những trường Trung Học Miền Trung vừa
tốt nghiệp Tú Tài, sinh viên Sài g̣n trở về Huế, để
gần nhà hoặc nghĩ rằng thi cử ở Huế
dễ hơn ở Sài g̣n, một số ít sinh viên
đồng bằng sông Cửu Long,
công chức và tư chức.
Không khí Đại
Học khá tự do. Thời ấy, chưa có một nghiên
cứu nào cho biết sự hài ḷng, không hài ḷng, hay sự
đánh giá phẩm chất của các nhân viên giảng huấn.
Tôi có được nghe một vài chỉ trích lẻ
tẻ liên quan đến nhân sự một pḥng thí
nghiệm, nhưng kịp thời chỉnh đốn.
Có thể nói
một cách rất chung –mà tôi nghĩ là sai số không đáng kể--là : sinh viên Huế
hiếu học, có khả năng tự học—đọc
ngoại ngữ Pháp và Anh, nói riêng trong lănh vực khoa
học tự nhiên. Cũng có thể nói họ là những
con người thông minh, cần cù, kiên nhẫn, có nhiều
khả năng, biết biến cơ duyên có đại
học trong tầm tay làm phương tiện trao dồi
kỷ năng, tài khéo, trí thông minh, tính t́nh, mở rộng
tầm nh́n, tạo thêm quan hệ, khẳng định chính
ḿnh trong mọi t́nh huống.
Tôi cũng có
cảm giác rằng trong quan hệ thầy tṛ, không đâu
bằng t́nh người học tṛ VN đối với
thầy cô giáo cũ.
4.
Phụ huynh và đồng nghiệp
Tôi chưa gặp
khó khăn đáng kể đối với quí vị
phụ huynh.
Nhờ anh
Nguyễn Văn Hai tôi tiếp cận với nhiều
Đồng nghiệp của tôi ở các trường
Quốc Học, Đồng Khánh, Nguyễn Tri Phương,
Hàm Nghi, Bán Công, B́nh Minh, Trung Học Nguyễn Hoàng (Quảng
Trị), Phan Châu Trinh (Đà Nẵng), quí vị ty
trưởng Thừa Thiên, Quảng trị… Có vị
tuổi đời và tuổi nghề là bậc thầy
của tôi, đông đảo là đàn anh của tôi trong làng giáo.
Tôi học lắm
điều ở họ: tích cực lẫn tiêu cực.
Kết Luận
Tóm lại,
1.
Tôi về Huế với những mâu
thuẩn ít nhiều khắc nghiệt : mâu thuẩn trong
tự thân, mâu thuẩn với ông Viện Trưởng,
với ông Tổng Thơ Kư Viện.
Tôi vừa thích thú
vừa thất vọng, vừa khâm phục một nếp
sống xưa cũ vừa cảm nhận sự khắc
khe của cổ tục, vừa thấy dễ chịu v́
sự ân cần của mọi người vừa cảm
thấy khổ sở, lo âu không biết có đáp ứng
được sự chờ đợi của mọi
người, vừa phấn khởi về những thành
quả của chính quyền vừa bi quan trong những chi
tiết như nghe ca bài suy tôn trong một ngày lễ
hội,…
Tôi lại về
Huế trong thời Huế thánh thiện, mà tôi quả là
tứ cố vô thân. Ước ǵ Huế có được
một Queen Bee hay Đêm Màu Hồng nho nhỏ hay thêm một
vài rạp hát ciné.
Đôi ba tuần
trước ngày khai giảng, tôi cảm thấy trống
vắng và thất vọng.
Nhưng thất vọng không có nghĩa là
tuyệt vọng. Bên những bất như ư, bất măn
cụ thể khó quên, tôi cũng được lắm
điều thuận tiện giúp tôi lớn mạnh trong môi
trường Đai Học.
Nói chung, nếu có câu rất là
Huế ‘Huế đi để mà nhớ, chứ không
phải sống để mà thương’ th́ riêng với
tôi, giờ đây, đă quen xứ Huế, thiết
nghĩ: Huế đi th́
nhớ, mà ở th́ thương, thương cả cái
thuận cùng cái nghịch.
Nghịch là thách đố. Thách đố là cơ duyên tôi
luyện tài trí, thử thách tính t́nh. Nhờ vậy mà con
người được rèn luyện ở khả
năng, ở sự cần cù, kiên nhẫn, ở
đức khiêm cung, ở ḷng cởi mở, ở ham
muốn học hỏi.
Vậy nghịch là động cơ
của tiến bộ.
Thuận là lúc cảm nhận
được thoải mái, ung dung, như đi trên thảm đỏ, có thể
là lúc tâm trí an b́nh, lạc thiện, lúc đă qua
được một khó khăn, thoát được
một trăn trở, một bế tắc, một tai
ương lớn, cũng là lúc cuối đoạn
đường nh́n lại, cảm nhận những
giới hạn của con người trước cái bao la
vô cùng của vũ trụ, cảm nhận tính mong manh
của thân phận trong cái vô tận của thời gian.
Thương Huế, yêu Huế là
thương yêu cả cảnh vật và con người:
một quê hương đất đai cằn cỗi, ít
nguyên liệu ở ḷng đất, những con người
chịu khó, bền ḷng nhưng cơ cực, v́ cái tâm
gắn liền với đất đai cha ông, với thi
thơ lễ giáo, với đạo lư luân thường.
Ở Huế, thêm một lần tôi học
thương yêu.
Và
thương yêu là ôm cả thuận nghịch mà
thương.
2.
Thế rồi, không biết tự lúc nào,
như tôi đă thưa tŕnh: Huế trở thành của tôi,
mà cái ǵ của tôi đều tốt, đều hay,
đều đẹp.
Ở Huế, tôi có nhiều người
bạn tốt, hầu hết đều là huynh
trưởng của tôi. Tôi
học nhiều về nếp sống văn hoá Huế
ở những ông anh bà chị nầy.
Tôi cũng có những người bạn
cùng trang lứa cùng nhau chia xớt những công việc
chung, có nhau trong cái may cũng như trong cái rũi.
Cho phép tôi nói lên ở đây ḷng tri ân
của tôi với các ông anh, bà chị và những
người bạn chí thành nầy.
3.
Tôi có “ngọng” lần đầu xưng là con để nói
chuyện với cha VT của tôi.
Cũng có một
thời gian tôi nh́n ông: nếu không là một Grippeminaud
của La Fontaine, th́ cũng là một Tartuffe của Molière.
Tôi đă có một
cái nh́n không tốt về Ngài.
Tôi đă không thấy hiểu
được hết hoài vọng và mức độ
thiết tha cùng tột của Ngài trong việc đặt
Đại Học trong tầm tay con em hiếu học
Huế.
Tôi cũng đă không thấy hiểu
kịp thời rằng thời cơ đă chín, mà không có
tôi, th́ chỉ một ḿnh anh Hai cán đáng vừa chứng
chỉ Toán Học Đại Cương, vừa Năm
Thứ Nhất Ban Toán của Trường Cao Đẳng
Sư Phạm, thật quả bất kham, coi không
được.
Tôi cũng
không thấy hiểu hết những cố gắng
của Ngài Viện Trưởng trong việc dành cho
Đại Học một không khí trong lành cần thiết
cho sự học hỏi và phát triển
Lúc bấy giờ tôi thấy cái lư của
tôi mà không thấu hiểu bối cảnh của Ngài,
những động cơ hành động của Ngài.
Tôi đă có
những phê phán giá trị, xấu tốt v.v. Tôi có tiếc
là đă không đủ kiên nhẫn nhường nhịn.
Tôi cũng tự vấn không rơ ḿnh có đi quá xa, quá
trớn, ra ngoài các giới hạn khả chấp ?
Tuy nhiên, cuộc
sống là vấn đề. Sống không là trốn
chạy. Tránh né, chui đầu vào cát như con đà điểu,
vấn đề không v́ đó mà triệt tiêu hay
được giải quyết thỏa đáng.
Giáp mặt,
trực diện với vấn đề mới là một thái độ thích hợp. T́m
hiểu : trước không biết, sau th́ diễn
biến phát hiện. Gặp bất như ư, khác ḿnh, lạ
với những thói quen của ḿnh, với những giá
trị của ḿnh, là việc
đương nhiên. Đụng chạm, cải vả,
lời qua tiếng lại làm sao tránh khỏi, nhưng không v́ vậy mà dán nhản
người trong cái sai quấy. Nghe rằng Tây Thi có
thẹo th́ con người tốt nhất, cái hoàn hảo
nhất cũng có những khuyết tật trong tự thân.
Vậy, nếu được lấy người làm
gương soi, th́ có
khả năng ḿnh khám phá được phần mù của
chính ḿnh. Và va chạm sẽ là cơ duyên để hiểu
người biết ḿnh. Vậy xá ǵ những hiểm nguy
lẻ tẻ bất ngờ xảy ra mà phải ngại
sợ va chạm. Nói như
vậy không có nghĩa là không đắn đo, không cân phân
hơn thiệt.
Giờ đây, nh́n
lại, th́ những đụng chạm như vừa nói
qua trên đây chỉ là những lượng sóng lăn
tăn làm cho tôi hiểu thêm cuộc sống. Và khi hiểu được—hiểu
tâm t́nh, hiểu tham vọng, hiểu hành động của
Cha VT của tôi, và những hệ quả tốt
đẹp của những điều nầy—thiết
nghĩ tôi phải công bằng mà nói : Ngài là một con
người vĩ đại.
Trong ṿng 6 năm, Ngài đă khai sinh nhiều
trường Đại Học, đưa vào nếp sinh
hoạt b́nh thường, dự nhiều khóa tốt nghiệp,
gởi sinh viên và nhân viên đi du học hoặc tu
nghiệp, nhịp độ kinh người. Không chỉ
có thế, Ngài c̣n đề xướng lấy quốc ngữ làm chuyển
ngữ ở Đại Học—cái mà có người đă
gọi là prétentieux. Lấy quốc ngữ làm chuyển
ngữ ở Đại Học trong thời buổi ấy
là đại chúng hóa Đại Học, và đồng thời
làm giàu ngôn ngữ VN ta.
Cách đây
khoảng một thập niên, tôi có viết một bài
tựa đề là : Huế, Viện Đại
Học, Cha Luận, và chúng tôi… Chữ chúng tôi
thật nhỏ so với
chữ Cha Luận, Viện Đại Học, Huế,
và nội dung tập trung vào Huế, Viện Đại
Học và Cha Luận. Chúng tôi muốn đem lại phần
nào công bằng cho Cha VT của chúng tôi.
Hôm nay, một lần nữa,
tôi mượn diễn đàn nầy làm cơ duyên
để tỏ ḷng kính thương, mến phục và
biết ơn của tôi đối với Ngài.
4.
Viện Đại Học được
thành lập là cho sinh viên. Không có sinh viên, không có chi cả,
không có cơ sở , pḥng ốc, giảng đường,
pḥng thí nghiệm, không có quí vị nhân viên chủ sự
pḥng ban, không có VT, Khoa Trưởng, nhân viên giảng huấn,
chi chi cả. Nói cách khác Viện Đại Học hiên
hữu là « v́ họ, do họ, bởi họ ». cho
nên phần quan trọng nhất trong lời phải dành cho
họ.
Cha Luận tạo
cơ duyên, đưa đến họ một phương
tiện để họ tùy nghi sử dụng theo sở
thích và sở năng.
Trước 1975, tôi có dịp đi thăm một số
giáo sư-cựu sinh viên ĐHSP Huế từ Đông Hà cho
chí Qui Nhơn, Nha Trang và Hoàng
Triều Cương Thổ. Có người vào tận
Đồng Bằng Sông Cữu Long. Tôi cảm mến và
tự hào về những đóng góp và chịu khó của
họ. Sau 1975, đông đảo cựu sinh viên Huế
được rải trên toàn thế giới. Nguyễn
Mộng Giác, khoa Văn Trường Đại Học
Sư Phạm Huế, đă nổi tiếng nhà văn
được nhiều người yêu chuộng, nhiều
người đạt bằng kỹ sư, tiến
sĩ, làm ở hảng xưởng hoặc dạy Trung
Học hay Đại Học ngoại quốc..
Năm vừa qua,
tôi có dự Đại Hội mừng 50 năm thành lập
Trường Y Khoa Huế, do quí vị cựu sinh viên Y Khoa
Huế tổ chức ỏ Santa Ana California. Hầu hết
họ đều thành công, và
thành công vẻ vang lắm, ngay
trong ngành nghề Y Khoa của họ.
Thiết nghĩ: «Người có tài năng mà có
điều kiện th́ trí thông minh và năng khiếu phát
triển cực đa ». Người sinh viên Huế
lúc bấy giờ đă sử dụng được
những phương tiện khiêm tốn mà VĐH đă
trao vào tay, để đi khắp nẻo đường
đất nước, và sau
1975, đă bay khắp bốn phương trời. Họ
đă đóng góp cho mọi miền đất nước.
Giờ đây, họ tiếp tục đóng góp cho nhân
loại nói chung.
Thật là một
hồng ân, một phép lạ.
Tôi xin quí vị cho phép tôi nói lên đên
đây lời cám ơn chân thành của tôi với quí anh
chị cựu sinh viên
Đại Học Huế. Quí anh chị là cơ duyên cho
chúng tôi được hồng ân nầy
Trên đây, tôi có
trích dẫn hai câu thơ đầu của Tô Đông
Pha :
Lô Sơn yên tỏa Triết Giang triều,
Vị đáo sinh b́nh hận bất tiêu
Để kết
thúc, thiết nghĩ phải ghi lại hai câu cuối:
Đáo đắc hoàn lai vô biệt
sự.
Lô sơn yên tỏa Triết Giang triều[10].
Không
là môt thiền sư, hay phật gia trác tuyệt, nhưng qua
những những điều tôi vừa kể trên đây,
th́ với tôi, khi chưa đến, tôi ắt phải nuôi
hi vọng sẽ đến, và t́m cách để
đến, và chỉ có ân hận là
khi mà đă t́m hết mọi cách mà phải tuyệt
vọng.
Cũng
phải ghi rằng trong tuyệt vọng, trong ngơ cụt,
lạc vào đường hầm tối đen, khi mọi
cơ may như đă mất, Ơn Trên luôn dành cho con
người một tia hi vọng, tí lửa trong ḷng, dù
chỉ là hi vọng một phép lạ. C̣n như đáo đắc hoàn
lai, không phải không có gi lạ, mà có lắm chuyện
lạ lùng. Chuyện lạ của gịng đời, bể
dâu của cuộc sống, chuyện đổi thay của
tâm thái. Huế, Viện
Đại Học, Cha Luận, và cái khối nhân sự bao
quanh Linh Mục Viện Trưởng, tùy lúc tùy thời mà
hiện lên sắc thái khác nhau, muôn vẻ, muôn màu. Riêng tôi, đến Huế,
một thân một chắt, rời Huế với một
vợ ba con. Sao lại nói không có ǵ lạ?
Xin cám ơn sự
lắng nghe của quí vị.
NGUYỄN
VĂN TRƯỜNG
[1] Giám thị cho học sinh trung học
2 unité d’action
3 unité de lieu
4 unité de temps
5 Certificat d’aptitude au
professorat de l’enseignement secondaire
6 Giảng nghiệm viên
7 Giám thị
8 Mù tỏa Lô sơn sóng
Triết giang
Khi chưa đến đó
hận muôn vàn
9 Ở trong Nam, khi con nít
khóc, thường th́ dùng Ông Kẹ dọa cho nó nín khóc.
10 “Bài dịch thơ bằng tiếng
Việt hay nhất (không nhớ dịch giả):
Mù tỏa Lô sơn sóng Triết giang
Khi chưa đến đó hận muôn vàn
Đến rồi về lại không ǵ lạ
Mù tỏa Lô sơn sóng Triết giang”Trích dẫn:
Những Phương Trời Viễn Mộng Tuệ
Sỹ (Internet: Lô Sơn Chân Diện Mục)