Ruộng ai người nấy
đắp bờ.
Duyên
ai nấy gặp, đừng chờ uổng
công.
Không có đắp
bờ, người dân ở đây chỉ
trồng lúa xạ, không cần gieo mạ và
cấy ra từng bụi như lúa cấy, ít tốn công. Tuy nhiên năng xuất thu
hoạch thì kém xa lúa cấy... Dân địa
phương cho biết nỗi tiếng nhất là
loại gạo đỏ hạt dài giống như
loại gạo huyết rồng đang bán ngoài
chợ, rất thơm cơm, ăn giống như
là xôi nếp. Tôi có hỏi thăm mấy ông già
trong xóm, tại sao có tên Ba Thê? Được
biết trước khi có đám Cộng
Sản từ Bắc vào xâm lăng miền Nam,
thì làng nầy rất trù phú, dân cư
giàu có, là vựa lúa và vựa
cá. Những ngày Tết hay lễ hội
lớn, ban đêm đốt đuốc đi chơi
từ làng nầy sang làng khác, cờ
bạc thì khỏi nói, đá gà, bông
vụ, hốt me.... Vì dư giả nên các ông trong
làng cưới được nhiều
vợ, ba bà là chuyện thường nên
làng được đặt tên là Ba Thê
có nghĩa là ba vợ. Thuở ấy
tuổi còn trẻ, chưa thấy quan tài, chưa
đổ lệ, nên cứ nghĩ mấy ông trong
làng nầy sao mà có phước quá, bây
giờ tuổi đã xế chiều nghĩ
lại mà thấy thương cho mấy ông già ba
vợ, một bà cằn nhằn nhiều
khi còn chịu không nổi huống gì cả ba
bà cùng cằn nhằn, không chết thì
cũng điên cái đầu.
Qua khỏi xóm nhà
và đám ruộng là đi vào khu
vực cấm, rừng tràm dưỡng
là hang ổ của VC từ nhiều năm,
chưa có đơn vị địa phương
nào bén mảng đến vì vào thì
dễ mà lúc ra thế nào cũng bị
phục kích hay mìn bẫy, thêm vào đó
mùa mưa nước ngập lai láng không
có đường mà đi. Quận thì
lờ mà tỉnh thì cũng bỏ qua cho
bình an vô sự.
Là một phần của U
Minh thượng, bắc tiếp nối với
địa phận Thất Sơn, Châu Đốc, nam
kéo dài xuống tận U Minh Hạ
Chương Thiện, Cà Mau tiện
đường giao thông nên rừng tràm là
một địa điểm giao liên quan trọng cũng
là mật khu an toàn từ nhiều năm qua.
Nhưng đến đầu năm 1975, Tư Lịnh Sư
Đoàn 21 BB đã quyết định mở
một cuộc hành quân đánh vào sào
huyệt của đám CS xâm lăng nầy, bởi
lẽ bọn VC vừa lấy cái hang ổ nầy
làm mật khu hậu cần cho sư đoàn 4
Hậu Giang mới thành lập, chủ lực
là 2 trung đoàn D1 và D2 xâm nhập từ
Bắc vào Nam, toàn là Bắc Kỳ con
mà chúng dám bảo là của quân dân miền
Nam tăng cường thêm
mấy
tên VC được thả ra sau hiệp định
Paris 1973 các đơn vị đặc công, các
tiểu đoàn U Minh... Mấy tên VC nầy rất
cuồng sát và liều mạng như để
tỏ lòng trung thành với Bác và
Đảng.
Ngày N xuất phát
từ Rạch Sỏi (Rạch Giá), Trung
Đoàn 32 phối hợp với Thiết
Đoàn 9 Kỵ Binh ba mặt tấn công,
Đại Đội Trinh Sát 32 tùng thiết
cùng một Chi Đoàn Thiết vận Xa M113
tấn công vào hướng chính diện,
những ngày đầu chỉ chạm địch
lẻ tẻ, đến ngày thứ tư mục
tiêu cuối cùng vẫn chưa thanh toán
được, nhiều lần bị đánh
bật ra, lý do thiết giáp không thể vào sâu
để yểm trợ hỏa lực,
rừng tràm dày đặc, đất không
chân dễ lún, hầm hố của chúng thì
quá kiên cố, hố chữ T nắp hầm
lót toàn cây tràm đắp đất lên nên
pháo binh có tác xạ chỉ là cò
ỉa miệng ve còn hỏa lực của
chúng thì quá hùng hậu, ở trong
rừng tràm bắn xối xả ra từ
phòng không 12 ly 8 đến 82 ly không giật, loại
bắn thẳng thay cho B40 hay B41.
Buổi trưa ngày N+4
đơn vị tôi cùng chi đoàn M113 đang
đóng quân ngoài cánh đồng ven rừng
tràm dưỡng quân thì
bất ngờ có trực thăng của Tư
Lịnh Sư Đoàn đáp xuống thị
sát mặt trận. Tiện đây
cũng xin sơ lược một chút về Niên
Trưởng Mạch Văn Trường K12/TVBQGVN,
Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB, khi Tướng Lê
văn Hưng rời Sư Đoàn lên làm tư
lịnh phó Quân Đoàn 4 thì NT Mạch Văn
Trường lên thay, ông đã từng làm
Tỉnh Trưởng tỉnh Long Khánh, trung
đoàn trưởng trung đoàn 8 và Tư
lệnh phó SĐ 5BB, ngay cả ở chiến
trường An Lộc, chính Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu đã từng giới
thiệu với một vị Tướng cố
vấn Mỹ: “đây là học trò cũ của
tôi”, ý nói khi Tổng Thống làm Chỉ Huy
Trưởng TVBQGVN thì niên trưởng MV
Trường còn là SVSQ khóa 12. Không
những có tài thao lược, ông còn
rất giỏi về tham mưu, tôi nhớ có
một lần ông tự tay thảo một mật
lịnh, vẽ một phóng đồ hành quân
bỏ vào hộp đựng lựu đạn
quăng xuống cho tôi ở xã Tân Bằng
Cán Gáo (Cà Mâu) để tối hôm đó
tôi dẫn theo cả một
tiểu đoàn Địa Phương
Quân thoát khỏi vòng vây của VC về đến
nơi an toàn.
Cùng tháp tùng
với tư lịnh, có ông Nhan Minh
Trang từng làm tỉnh trưởng Rạch
Giá, Gia Định, là dân biểu nặng
ký của nền đệ nhị Cộng Hòa
nhưng đối với sĩ quan phé nhí
như tôi thì nặng hay nhẹ ký không làm
tôi quan tâm, tôi chỉ quan tâm đến điều mà
ông Tư Lệnh vừa
gợi ý, giọng nói nhỏ nhẹ, nói
như là nói chơi nhưng mà là lệnh:
“Ban ngày vào không được thì
thử ban đêm xem sao? ”.
Dân miền Nam có câu:
“khách đến nhà không gà thì vịt”,
có khách quí đến thăm mà không có
gì đãi đằng thì cũng kỳ. May
mà lính nhà bếp vừa nấu cơm xong,
gạo đỏ vùng nầy ngon như là xôi
nếp, không có chén đũa, xới cơm
để trong lá chuối, tư lịnh, dân biểu,
trung đoàn trưởng... tất cả
đều ăn bốc một cách ngon lành. Ông
trung đoàn trưởng muốn lấy
điểm với ông dân biểu nên nháy mắt
nói nhỏ: “cho ổng cây K54 đi”, Xếp kêu cho thì cho, tôi
rút cây K54 lấy băng đạn ra, đưa
nòng lên trời làm hai phát an toàn,
trịnh trọng đưa tặng ông dân biểu
như là bảo kiếm tặng anh hùng. Niên
Trưởng Nhan Minh Trang khóa 3/TVBQGVN đã qua
đời tại Houston TX năm 2010, có 4 cựu SVSQ khoá
25/TVBQGVN đi phủ cờ cho quan tài của ông, trong
đó có tôi. Lúc trước đi họp
VB ở Houston có gặp niên trưởng
Trang mấy lần nhưng chưa hề nhắc
lại chuyện tặng cây K54 và đãi ông
ăn bốc cơm gạo đỏ đựng trên
tàu lá chuối tươi vào một buổi
chiều trên cánh đồng Ba Thê. Tôi nhớ
rất kỹ chuyện nầy vì là chuyện
lớn của tôi, khẩu K54 là cả một gia
tài lúc đó nên tôi nhớ, còn
đối với niên trưởng Trang là
chuyện nhỏ, lặt vặt nên ổng cũng
chẳng cần nhớ để làm gì. Bây
giờ NT Nhan Minh Trang đã rời cõi
trần, xin nguyện hương linh của ông tiêu diêu
nơi miền cực lạc.
Buổi chiều trời
vừa sập tối, tôi cho một toán
lặng lẽ bò vào rừng tràm
để thám sát, mỗi trung đội chọn một
số khinh binh khỏe mạnh nhanh nhẹn. Tất cả
chia làm ba toán, ba lô đều được
bỏ lại, chỉ mang súng cá nhân, lựu
đạn và hỏa tiễn chống chiến xa M72,
số hên gặp cái gì cũng hên, đầu
năm toán huấn luyện của trung tâm Dân Chí do
NT Huấn K.24 làm trưởng toán
nên phe ta cũng được tặng gần
một chục M72, lại thêm lúc tùng thiết
một thằng em bảo nhỏ: “tụi em muốn
chôm mấy trái M72 của tụi Cua”, mình cần
chứ tụi nó đâu cần, nghe có thêm M72
phòng khi hữu sự cũng thấy khoái
trong bụng lắm nhưng đâu dám nói
ừ, chỉ làm bộ không biết...
Quá nửa đêm
thì cả ba toán đột kích của
ĐĐ Trinh Sát 32 đã vào
gọn trong rừng tràm, ánh trăng non
lờ mờ xuyên qua rừng lá cộng thêm
mùi thơm hăng hắc
của đọt tràm non, khung cảnh thật là
ma quái đúng là đoàn quân đang đi
vào cõi u minh. Gần bốn giờ sáng
thì nghe tiếng gọi ơi ới của tụi
vịt con. Yếu tố bất ngờ và
sự may mắn, hay không bằng hên, toán
đi đầu đã tiến sát tuyến
phòng thủ của VC, trong lúc chúng đổi
phiên gác hay bỏ tuyến vào lo nấu cơm
sáng, cơ hội đã đến, toán xạ thủ
giương 4 trái M72 chờ lịnh... Ầm,
Ầm, Ầm, Ầm.... bốn tiếng nổ long
trời lỡ đất tiếp theo từng
loạt lựu đạn và M16 tấn công
tới tấp, hoàn toàn bất ngờ nên
tụi VC hết hồn
bỏ súng bỏ cơm mà chạy. Lệnh xung
phong được ban ra, thế là chiếm
được tuyến đầu của địch
nhưng chưa kịp bố trí lại đội
hình thì ôi thôi, từ bên kia con lạch nhỏ
nào AK47, B40, B41 có cả phòng không 12 ly
8 bắn
qua như mưa, may nhờ có mấy
cái hố bom và hố pháo binh 105 ly nên phe ta
vẫn vô sự, cứ ngồi dưới
hố mà từ từ điều chỉnh
pháo binh, cầm cự cho đến 9:00 giờ
sáng thì có Mặt Trời lên vùng, kèm theo
hai con chó lửa (gunship) và một bà già L19. Khoảng 1:00 giờ trưa thì có hai phi tuần A37 từ Cần Thơ
bay qua
thả bốn trái bom Napal, lúc ấy lá
tràm cũng bắt đầu khô, cho cái
đám sanh Bắc tử Nam thành
chuột quay luôn. Lợi dụng đám cháy
khói còn mù mịt, toán viễn thám mang hỏa
tiển M72 tiến sát doanh trại bọn Việt
Cộng, còn lại bao nhiêu tôi cho xả láng, là
đợt xung phong cuối cùng, nếu
được thì thừa thắng xông lên,
không được thì tam thập lục kế,
quay lưng dzọt lẹ. Thật không ngờ
sức công phá của hỏa tiển M72 thật
thần sầu và khốc liệt, những công
sự hầm hố của VC bị hất tung lên
trời, một dãy nhà trại của chúng
bị ngã xập, toán thứ ba xung phong ném
lựu đạn chiếm mục tiêu chỉ
gặp sự kháng cự yếu ớt
của chúng.
Hậu cần Sư
Đoàn 4 Hậu Giang của
VC là những dãy
nhà sàn nên mùa mưa
lẫn mùa nắng chúng đều ở được,
một dãy bên nầy chứa cả
ngàn bao gạo, ở đâu mà nhiều thế
chắc là đi ăn cướp của dân.
Còn dãy bên kia là cả một kho súng
đạn do Nga Sô và Trung Cộng ban cho. Rất
nhiều súng lớn như Phòng Không 12 ly 8,
ngoài mặt trận kiếm được
một cây cũng trầy da tróc vẩy, ở
đây nó dựng cho
cả chục, thượng liên nồi RPD, B40, B41, AK47,
K63.... Khoảng 100 hỏa tiển 107 ly
&
hỏa tiển 122 ly và hơn
200 cây súng, vác cả buổi mới ra khỏi
bìa rừng cho thiết vận xa M113 chở
về...
Từ phi trường
Rạch Giá một chiếc C47 chở tôi lên Sài
Gòn vào trình diện Trung Tướng Trần
Văn Trung và thuyết trình về trận
đánh ở Tổng Cục CTCT. Đại Tá
Cao Tiêu tổng cục phó cho đơn vị tôi 50
ngàn đồng, đầu tóc của ông bạc
phơ trông rất là tiên phong đạo cốt.
Ngày hôm sau xe đưa tôi qua Đài Truyền
Hình Quân Đội để
thực hiện một show về chiến thắng Ba Thê lúc ấy do
Trung Tá Nguyễn Đạt
Thịnh làm giám đốc, ông hiện cũng
là cư dân Houston. Lần đầu tiên
được biết mặt Thiếu Tá
Đặng Trần Huân, tên tuổi rất quen thuộc
trong mục “tiếu lâm” của
báo Chiến Sĩ Cộng Hòa.
Và cả đời tôi
cũng không quên được cái buổi lễ
sinh nhật của Tư Lệnh Sư Đoàn
được tổ chức tại Bộ Tư
Lịnh Tiền Phương ở Chương
Thiện mà tôi là cấp nhỏ nhất
được mời. Lúc đó thật
sự trong lòng tôi rất cảm động
trước tấm thịnh tình chiếu cố
của ông và tôi cảm thấy mình như
nợ ông một ân tình cần phải đáp.
Súng mới báo
cáo phân nửa lên Sư Đoàn, thì
Tháng Tư Đen lại đến, tụi nó (VC)
vô lấy lại tại hậu cứ Cà Mâu.
Vào trại tù Cần Thơ thì gặp
thượng tá Ba Song, chính ủy của SĐ
4 Hậu Giang làm trưởng trại tù, thôi
cũng đành theo đoàn Tù Binh xuống
tàu ra Bắc.
Thời còn là Sinh
Viên Sĩ Quan của Trường Võ Bị
Quốc gia Việt Nam, tôi đã có lần mơ:
“Một ngày nào đó sẽ theo chân
Đoàn Hùng Binh
tiến về Thăng Long, vào tận quãng trường
Ba Đình mà thượng Cờ Vàng Ba
Sọc Đỏ, đạp chân lên nhịp cầu Long Biên
mà ngạo nghễ hát bài Võ Bị Hành
Khúc”. Nhưng tất cả chỉ là mộng
còn thực tế là đi ở tù.
Trước khi dứt
lời, kính xin một phút mặc
niệm hương linh những Chiến Sĩ
đã hy sinh vì lý tưởng tự do,
đặc biệt là hương linh của cố
Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, cựu Tư Lịnh
SĐ 21 BB người đã cùng
Tướng Nguyễn Khoa Nam tuẫn tiết sau
cuộc chiến tại Cần Thơ. Kính lời
chào đến vị Tư Lịnh cuối cùng
Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường,
người đã tạo nhiều chiến công
hiển hách cho SĐ như: bẻ gẩy âm mưu san
bằng thành phố Cần Thơ thành bình
địa của đám CS xâm lăng. Cuối cùng
xin được chào những người
đã từng phục vụ trong Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa nhất là những
người lính của SĐ 21 Bộ Binh: Trung
Đoàn 31 Chương Thiện, Trung Đoàn 32
Cà Mâu, Trung Đoàn 33 Cần Thơ và Thiết
Đoàn 9 Kỵ Binh Sóc Trăng. Hỡi
những người chiến sĩ hào
hùng của Sét Miền Tây, làm sao quên
được các địa danh đã
khắc sâu vào tâm khảm: Cà Mâu, U Minh Hạ,
Rạch Giá, U Minh Thượng, Bạc Liêu, Sóc
Trăng, Cần Thơ, Chương Thiện... Ai còn
nhớ?... Lời thơ do một chiến sĩ
sình lầy sáng tác từ rừng U Minh:
Mỗi con lạch là nỗi sót sa.
Mỗi dòng sông là một đọa đày.
Nước phèn nhuộm vàng màu
quần trây dzi…
Trân Trọng Kính Chào,
Phùng Hữu Châu
Houston, TX 11- 2013