Tùy bút:

Một Năm Người Có Mười Hai Tháng

Ta Chỉ Riêng Ḿnh Một Tháng Tư

(Tạp Chí Xây Dựng – Năm Thứ 32 – Số 808 – Phát hành ngày 4 tháng 4-2015)

                                                                                                                  Hoàng Minh Thúy

Thấm thoát lại đến tháng Tư, cái mốc thời gian gợi bao nỗi đau thương, tủi nhục của người Việt lưu vong mỗi khi nhớ đến tháng Tư năm 1975, nên có người gọi là “Tháng Tư đen”. Một nhà văn nổi tiếng và cũng là nhà thơ đă hạ bút để diễn tả sự ưu hoài của ông trong tháng Tư quốc nạn:

Một năm người có mười hai tháng.

Ta chỉ riêng ḿnh một tháng tư

                          (Thanh Nam)

Tháng 4 đến, chắc chắn sẽ gợi nhiều kỷ niệm, nhất là với các người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, đă tức tủi tan hàng. Kẻ mất người yêu trong cơn hỗn loạn. Người th́ tan nát gia đ́nh sau tháng năm dài tù tội. Biển cả hóa nương dâu..

Tháng 4 đến, khiến cho ta nhớ lại:

-Thiếu tướng Phạm văn Phú, sau cuộc lui quân từ cao nguyên về, thất bại, ông nhập viện và uống thuốc độc tự tử vào ngày 29 tháng 4, 75.

-Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh Sư đoàn 5, dung súng tự sát trước sân cờ Bô- Tư Lệnh ở Lai Khê, Bến Cát, B́nh Dương sau khi nghe tướng Dương văn Minh ra lệnh buông súng.

-Chuẩn tướng Lê văn hưng, Tư Lệnh Phó Quân đoàn 4, sau khi nói lời giă biệt vợ con, ông vào văn pḥng, dung súng tự sát lúc 8 giờ 45 phút tối ngày 30 tháng 4, 75.

-Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân đoàn 4, dung súng tự sát tại văn pḥng sáng ngày 1 tháng 5, 75 lúc 7 giờ 30 sáng.

-Chuẩn tướng Trần văn Hai, Tư Lệnh Sư Đoàn 7, Bộ Binh, đă uống độc dược tự tử tại pḥng Chỉ Huy ở Mỹ Tho lúc 5 giờ chiều 30 tháng 4, 74.

-Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh tưởng tỉnh Chương Thiện, chiến đấu đến giờ phút cuối cùng, bị bắt, và bị xử tử ngày 14 tháng 8, 75. Trước khi bị hành quyết, ông đă dơng dạc tuyên bố:

“Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản. Việt Nam muôn năm”.

Chúng ta c̣n có Trung Tá Cảnh sát Quốc Gia Nguyễn văn Long, dung súng tự sát dưới chân tượng đài trụ sở Quốc Hội tại Saigon.

Chúng ta c̣n có 7 anh chàng samourai của gia đ́nh Mũ Đỏ, ngồi thành một ṿng tṛn, chia nhau hớp ruợu cuối cùng, rồi mổi người một trái lựu đạn cá nhân, cùng rút chốt một lần, như lời kể của một kư giả Nhật của hăng thông tấn Kyodo, trong số báo ra tháng 12, 1975..

Và c̣n nhiều nữa, những người lính tử thủ trong rừng mía, chiến đấu cho đến khi tuyệt vọng, họ đă dùng viên đạn cuối cùng, tự xử đời ḿnh.

Với tôi, mỗi khi gần đến ngày Quốc Hận khiến cho tôi nhớ lại tháng 3, 1975, khi làn sóng dân, quân di tản từ miền Trung tất tả đổ dồn vào thành phố Nha Trang. Những trại tạm cư, nhà thờ, trường học, chùa chiền, đầy những khuôn mặt ngơ ngác, kèm  theo tiếng khóc ai oán. Người mất cha, kẻ mất chồng, người ưu tư về thân phận thân nhân c̣n kẹt lại ở các tỉnh địa đầu giới tuyến...

Tôi không có bà con, bè bạn trong rừng người di tản đó, chỉ có tấc ḷng quặn thắt của t́nh người, khi nghĩ đến những phụ nữ cùng lứa với ḿnh, đang lao đao khốn khổ v́ thảm họa chiến tranh. Khi đưa tặng họ những món quà mọn, người không quen nhận bằng đôi mắt vô hồn. Có ai nghĩ tới một ngày, họ phải bỏ nhà cửa, xe cộ, ruộng vườn, để đứng, ngồi la liệt trên các tấm chiếu nylon ở một nơi đông đúc, hỗn độn như thế này! Tội nghiệp nhất là các thiếu phụ trẻ tuổi, bụng to vượt mặt, hay con c̣n bồng ẳm trên tay. Một tay dắt con, tay dắt mẹ, cuộc đời cô trôi dạt về đâu?

Tôi rời Nha Trang vào tuần lễ thứ 3 của tháng Ba, về  Saigon  trên một chiếc trực thăng. Khi đó, tôi vừa tṛn 29 tuổi.

Phi cơ đáp. Ngơ ngơ ngác ngác giữa rừng người ở trạm Hàng Không Quân Sự trong phi trường Tân Sơn Nhất, vai đeo túi xách, tay bế con gái hai tuổi, tay dắt con trai tám tuổi; Trang Đài lúc đó hai tuổi, c̣n ôm theo chai sữa. Tôi cố t́m trong đám đông một khuôn mặt thân quen, để quá giang ra cổng trại Phi Long, từ đó đón xe về nhà cha mẹ. Khoảng cách không đầy 3 cây số mà tấp nập người di chuyển. Bươn bả, hấp tấp, chộn rộn, bàng hoàng, mệt mỏi, kinh sợ.

Rồi tháng 4 đến, nhằm ngày 19 tháng 3, Ất Ngọ, thành phố Saigon tràn ngập cờ đỏ sao vàng, áo quần lính vất ngỗn ngang, giày saut, bi đông, nón sắt… Ôi, tội nghiệp thay cho người lính của chúng ta…

Tháng 5 tới, Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Ḥa bị mời lên Phường, Khóm tŕnh diện. Ở trong xóm, một sĩ quan Hải Quân treo cổ, nhất quyết không nộp ḿnh. Một sĩ quan Bộ Binh, cho gia đ́nh ăn cháo pha thuốc độc để t́m về bên kia thế giới, nơi không có bóng cờ, mà đại gia đ́nh ông đă từ bỏ năm 1954, trên con đường hải hành gian khổ từ Bắc vào Nam. Cứ như thế, cả con đường Trương Minh Giảng như lên cơn sốt. Đi về đâu khi xe tăng của CS đă nằm ở cổng trại Không Quân của phi trường Tân Sơn Nhứt? Một số khác đưa gia quyến về vùng ven biển, kiếm đường bỏ nước, v́ nghe nói Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ vẫn c̣n ở ngoài khơi.  Tin tức loan truyền khắp nơi về một sự tắm máu sẽ xảy ra. Nhà nhà kín cửa, nói năng th́ thào,  ăn uống dè sẻn, điện nước không dám xài hoang phí. Các phụ nữ nhuộm quần áo thành màu đen.  Móng tay dài cắt ngắn, không c̣n sơn bạc, sơn hồng. Sự căng thẳng ngày một kéo dài, mỗi khi nghe tiếng Loa vang hè phố.  Sáng sớm nghe Loa, chiều tối cũng nghe Loa, kêu tên từng người đến tŕnh diện chánh quyền. Trời ơi, có ai ngờ  Saigon  sẽ bị đau thương, tủi nhục như thế này?

Rồi từ đó, chánh quyền mới luân phiên đổi tiền, để biến người có nhà thành kẻ không nhà.  Người giàu hóa điên, v́ bị tịch thâu tài sản. Công an khu vực tự do vô ra gia cư của mỗi người, kiểm soát kín đáo các diễn biến trong gia đ́nh. Dân chúng  Saigon bắt đầu biết Cộng sản là ǵ, không phải tịch thu của người giàu, phân phối cho người nghèo qua lời đồn đại. Ngày ngày dân  Saigon xếp hàng mua nhu yếu phẩm theo tờ khai gia đ́nh.  Mọi thứ đều thành hàng lậu kể cả đậu, mè, trừ rau trái, hoa quả. Một thành phần mới vươn lên trở thành Phường Trưởng, Khóm Trưởng, Công An Khu Vực, nắm quyền sinh sát. Đó là thân nhân trực hệ có người theo CS, ở trên rừng về. Tủi nhục nhất là phải ngồi hằng đêm nghe họ thuyết giảng trong các buổi học tập của xóm, nói những điều nghe không lọt tai.

Những sự việc này, ai đă từng kẹt lại sau tháng 4, 1975, đều không lạ!

Từ ngày đó, những người yêu, người vợ của lính, trạc tuổi 30, má hồng phai nhạt. Họ bới tóc cao, đội nón lá, tất tả ngược xuôi chợ trời, trên các tuyến đường  xe đ̣, kiếm tiền nuôi con, thăm chồng, thăm anh em cật ruột trong lao tù khốn khổ. Các tù nhân cải tạo, bị chuyển đưa tù trại này sang trại khác, vất thư nhắn tin dọc theo đường di chuyển.  Mấy bà nhận được tin, th́ thào, loan báo cho nhau để biết chỗ mà bới xách, thăm nuôi. Quay đi, ngoảnh lại, cực khổ gian truân thắm thoắt cả chục năm, người chồng thân yêu mới được thả về. Có anh đă nằm xuống, thân xác gửi cho rừng cây của trại tù heo hút sau những ngày lao động, thiếu ăn thiếu thuốc....Có anh tự t́m về cơi chết khi nghe vợ giao con cho ông bà nội, lập gia đ́nh mới. Cả một bầu trời tang thương phủ chụp lên đời sống của dân chúng miền Nam. Rồi người đi đường bộ, kẻ theo đường biển, t́m phương tiện vượt thoát. Kẻ may mắn ngày nay thành.... Việt Kiều! Kẻ bất hạnh làm mồi cho cá, làm phân bón cho cây rừng trong rừng già Miên-Việt!

Thắm thoát đến nay, đă mấy chục năm!

                  * * *       

Khi bạn đọc cầm số báo này trên tay, thành phố của chúng ta đang chuẩn bị cho ngày tưởng niệm Tháng Tư Đen.  Đă  40 năm, Houston vẫn luôn có chương tŕnh tưởng nhớ ngày Quốc Hận, mặc dù  mười mấy năm gần đây, không có biểu t́nh tuần hành, đêm Không Ngủ như trước. Thủơ đó, phương tiện truyền thông chỉ hai ba tờ báo, có tờ phát hành không đúng ngày.  Muốn loan tin cho cộng đồng, Ban Tổ Chức in truyền đơn, rồi thay phiên nhau đi răi, đi gắn trên kiếng xe, dán trên tường của các chợ Việt Nam Plaza, chợ Hoà B́nh, tiệm phở, cà phê, vũ trường..

Ngày đó, mỗi tháng Tư về, nhóm tổ chức Ngày Quốc Hận, Ngày Quân Lực, bỏ tiền túi ra thực hiện công tác: treo cờ, thiết lập khán đài, xin giấy phép biểu t́nh. Thương mại của người Việt  Nam hăy c̣n èo uột, ban tổ chức không đi xin Sổ Vàng, tất cả mọi sinh hoạt đấu tranh đều bằng tiền túi của các vị trong nhóm: tiền nhịn cà phê, thuốc lá của các ông và tiền tiệu vặt của quí bà. Tuy đồng hương hăy c̣n nghèo, nhưng tinh thần rất cao.  Chương tŕnh nào cũng sôi nổi, qui tụ đông đảo. Lúc đó, BTC mới có lời kêu gọi, người tặng vài đồng, kẻ vài chục, góp quỹ chi trả. Biểu t́nh, tuyệt thực, thỉnh nguyện thư…Dân hải ngoại tranh đấu đủ mọi phương diện, để gây tiếng vang đến chánh quyền Mỹ, t́m đủ cách để cứu anh em trong tù, trong trại tị nạn Đông  Nam  Á.. Nhờ sự tranh đấu hết sức nỗ lực này, chánh phủ Hoa Kỳ ngó lại, mới có chương tŕnh Ra Đi Nhân Đạo (diện HO).

 Chương tŕnh Văn Nghệ đêm Quốc Hận ngày xưa, không tăng cường ca sĩ phương xa về, chỉ có lèo tèo vài bản đơn ca, hợp ca các bài hát đấu tranh, nhạc Chính huấn. Tuy vậy, trong Đêm Không Ngủ tổ chức tối Thứ Bảy, đông đảo người tham dự v́ hiểu rằng:

Bạn bè anh giờ này đang đốt lửa.

Anh ngại ǵ không góp chút củi khô?

                             (tác giả?)

Nửa khuya, ban ẩm thực dọn cháo gà, bánh ḿ. Nhiều đêm mưa rơi tầm tả, khi tan hàng, cha mẹ lẫn con cái lúc thúc chạy ra xe. H́nh ảnh này rất cảm động, v́ nhiều anh chị dắt theo con cái, chúng c̣n quá nhỏ lúc đó, như gia đ́nh Hứa Thọ Hùng, Trần văn Chiến và gia đ́nh tôi. Nửa đêm cháu Trang Đài, mắt nhắm, mắt mở, chạy theo mẹ ra xe. Thời gian này, hầu như tất cả, đều cảm thấy có bổn phận với thân phận người Lính c̣n ở trong các trại tị nạn Đông Nam Á (chờ cứu xét định cư), những người lính c̣n ở các trại cải tạo từ Nam tới Bắc và thiết tha với các tổ chức phục quốc của nhiều đảng phái. Bởi v́, mỗi người trong cuộc sống mới, đều có chung cảm nghĩ:

C̣n vương khói súng hằn trong mắt.

Gạt lệ nh́n nhau hồn xót xa.

(TQLC Nguyễn Kim Tiền)

                                                 ***

40 năm đi qua, một thế hệ đă trưởng thành, trở thành những doanh gia, chuyên viên đủ mọi ngành nghề, góp phần làm phồn thịnh cho nền kinh tế Houston. Những khu khu đất hoang vu tiêu điều của vùng Southwest trở nên sầm uất khang trang với hàng trăm cửa hàng. T́nh h́nh chính trị thay đổi rất nhiều. Cùng lúc đó, các thiếu nhi theo cha mẹ đi biểu t́nh, đi canh thức Đêm Không Ngủ, bây giờ đă có gia đ́nh riêng, cho nên người năm xưa không c̣n năng lực của một thời tóc đen. Không kể nhưng anh qua đời vị bạo bệnh, thành phần tham dự công tác cộng đồng rơi rớt, c̣n lại rất ít những khuôn mặt cũ. Có người quay lưng v́ quyền lợi vật chất quyến , hợp tác làm ăn với chánh quyền CSVN. Có người rút lui, vui thú điền viên…Tuy nhiên, cũng có nhiều gương   mặt mới xuất hiện, tạo thêm nét buồn, vui trong ḍng sinh hoạt ngày thêm rộn ràng của thành phố.

Hôm nay, nếu tổ chức các chương tŕnh của ngày Quốc Hận, ngày Quân Lực để hâm nóng bầu không khí cũ, mà không có ca sĩ xa về tăng cường, đồng hương sẽ không đông đảo v́ phim bộ Đại Hàn, Hồng Kông, pḥng trà, vũ trường... vẫn có tiếng gọi lôi cuốn hơn. Một số đồng hương không muốn tham dự, v́ sợ ảnh hưởng cá nhân khi về du lịch VN!!! Một số yên phận, chấp nhận cuộc đời giá áo túi cơm…

Mấy năm gần đây, nhờ hệ thống điện toán ra đời, giải quyết phần nào sự khắc khoải của mỗi cá nhân, trong mỗi hoàn cảnh. Các đài phát thanh, truyền h́nh, báo chí tràn ngập thành phố, mở mang kiến thức cho khán thính giả. Các bài viết được dịp phổ biến, nhờ vậy mà Hồi Kư của các nhân vật có thẩm quyền trong chế độ cũ, lần lượt phơi bày mặt trái của mọi vấn đề, chính trị lẫn tôn giáo trong cuộc chiến, dẫn đến biến động tháng Tư đen.

Đọc xong, càng thêm ngậm ngùi, thương cho thế hệ tuổi trẻ Việt Nam, sinh nhằm thời ly loạn.

                 * * *

Tháng Tư, cũng là tháng sinh nhật của tôi. Như thông lệ, tôi không tổ chức tiệc mừng, mà tự thưởng cho ḿnh một thời gian riêng tư, để lanh quanh t́m các bài thơ, bài nhạc, của những kỷ niệm học tṛ một thời gắn bó, có bạn bè, người yêu đều là Lính. Vừa để mắt t́m trong “Net”, ḷng vẫn nhớ những kẻ đă hy sinh, những người bạn học chung lớp, thành kẻ thương tật khi vừa ra khỏi quân trường.

Họ đang ở đâu, có tồn tại sau tháng 4 quốc nhục?

Tôi t́m thấy nhiều bài thơ rất hay, của những người thanh niên trẻ, bỏ tay viết thay tay súng, để bảo vệ quê hương, vẫn luôn giữ được tính tính đôn hậu, như thứ t́nh yêu lăng mạn thật dễ thương qua một bài thơ của tác giả Trần Ngọc Nguyên Vũ..

Bài thơ mang tên “Giao Thừa Trông Ánh Hỏa Châu Rơi”, xin chép lại để chia xẻ cùng bạn đọc:

Ai về phố núi cao nguyên ấy.

Xin chuyển giùm tôi một lá thư

Tới ngừơi con gái buồn-muôn-thuở

Từ độ xa nhau chẳng giă từ

    

Em gái xa nhà, tôi lính trận

Gặp gở qua giây phút ngại ngần

Thị trấn về đêm heo hút lạnh

Mưa rừng, quán vắng bỗng thành thân....

    

Tôi c̣n bà mẹ bầy em nhỏ.

Em cũng mẹ già, mấy đứa em

Cũng chiều tựa cửa ngồi trông đợi

Cũng mỏi ṃn trông dưới ánh đèn.

 

Sinh ra thời loạn nhiều gian khổ

Phận má hồng thân lắm bụi trần

Tôi trải đời trai theo khói lửa

Em giặt ḷng, ṿ nát tâm can

 

Em kể chuyện ḿnh cay đắng quá

Cả đời chẳng được một lần vui

Thôi th́ vận nước c̣n trôi nổi

Hăy mỉm cười thay những ngậm ngùi

 

Tôi móc hết tiền lương vừa lănh

Nh́n em xỏa tóc phủ vai gầy

Nghẹn ngào khoé mắt rưng rưng lệ

Em nói lời nghe mưa bóng mây

 

Mai tôi ra trận, không cần đến

Em giữ mà may chiếc áo dài

Sắp đến tết rồi, về thăm mẹ

Mua quà cho mấy đứa em trai

 

Rồi đây trên bước đường xuôi ngược

Em dạt về đâu một kiếp người

Tôi ở tiền đồn ngoài BenHet

Giao thừa trông ánh hỏa châu rơi!

Bạn thấy người lính trẻ của chúng ta có ..dễ thương không, với lời thơ: “Tôi móc hết tiền lương vừa lănh”, tặng cho cô gái nghèo phải mở quán mưu sinh,  để cô về thăm Mẹ, mua quà Tết cho em dại, v́ rằng, ngày mai anh ra chiến trường, biết có c̣n sống mà tiêu xài?

Ôi! Người lính hào hoa của Quân Lực VN Cộng Ḥa. Người lính đó bây giờ về đâu trong cơi đời nghiệt ngă? Có phải anh hiển hiện trong cuộc sống lầm than, cơ cực, qua lời thơ của nhà văn Mường Giang:

Có lần từ Mỹ về Phan Thiết

Theo bạn nhậu chơi tận Phú Long

Bữa tiệc nhà giàu đầy rượu thịt

Đời vui như cảnh lạc tiên bồng

    

Đang lúc ngă nghiêng cười ngặt nghẽo

Bỗng ai vừa trổi khúc ly ca

Thêm đàn vọng cổ hờn, than, oán

Năo nuột trời ơi, nước mắt ḥa

    

Ra ngó, gặp anh người hát dạo

Cụt chân, mù mắt, lết xe lăn

Phong trần, nhuộm bạc đời trai trẻ

Nhưng nét nam nhân vẫn khắc hằn

 

Mấy chục năm sầu, bao biển lạ

Mà anh vẫn giữ áo hoa rừng

Chiến y chằng chịt trăm lần vá

Bạc phết, đoạn trường lắm thảm thương

 

Anh hát toàn bài chinh chiến cũ

Điệu ru nước mắt, nát tim người

Ḥ, xề, sang, xứ như ̣a thét

Khiến kẻ vong gia cũng tả tơi.

    

Tàn tiệc, mỗi người trôi một nẻo

Loạn ly đời thế, mấy ai vui

Tôi về xứ lạ, làm bồi Mỹ

Quên chuyện long đong, khóc lẫn cười

    

Nhân có bạn từ Phan Thiết tới

Hỏi tin người hát dạo thương binh

Mới hay anh đă ôm đàn chết

Giữa một đêm mưa trước mái đ́nh

 

Buổi đó v́ đời làm lính trận

Tàn cơn lửa loạn chịu thương đau

Nay trơ nắm đất mồ vô chủ

Định mệnh ǵ đâu quá nghẹn ngào!

 (Chuyện Người Thương Binh- thơ MG)

Đọc hai câu thơ:

“Mới hay anh đă ôm đàn chết.

 Giữa một đêm mưa trước mái đ́nh”,

 ḷng tôi xót xa buồn. Cô bán quán ngày xưa, nếu c̣n sống sau cuộc chiến, nay trở thành bà nội, bà ngoại. Nếu may mắn có được gia đ́nh ấm êm, sống trong hạnh phúc, cô có c̣n nhớ anh lính trẻ đă gặp trong thành phố buồn, của một thời lặn lội mưu sinh?

                 * * *

Tháng 4, thành phố Houston  bước vào mùa Xuân, ngày nắng ngày mưa, khi lạnh, khi nóng.  Mỗi khi trở trời, gặp ai cũng than thân thể bời rời, đau nhức. Bứơc vào tuổi 70, làm sao t́m được năng lực và thể chất của tuổi 30? Mỗi lần bệu rệu như vậy, tôi mong chúng ta hăy nghĩ đến các thương binh ở quê nhà. Vết thương sau ba bốn chục năm vẫn chưa lành, v́ tâm trạng của một kẻ bị quên lăng. Trong thân thể hăy c̣n lưu dấu vết của chiến tranh, c̣n mảnh đạn chỗ nọ, chỗ kia, mỗi khi thời tiết thay đổi, gây nhiều đau nhức. Họ đang sống trong tăm tối của cảnh đời thiếu thốn, chờ đợi t́nh yêu thương của đồng đội cũ, như sự an ủi sau cùng... Xin bạn đọc hăy rộng ḷng chia xẻ, góp chút t́nh cho anh lính thương tật, trước khi anh về cơi vĩnh hằng, như lời một thương phế binh nhận được 100 đô la từ hải ngoại gửi về. Anh dặn ḍ con, có nội dung với đại ư như sau:

-Con hăy giữ 100 đô la này, để dành mua cho ba cái ḥm, để khi chết đi, ba được nằm trong ṿng tay yêu thương của đồng bào ḿnh ở Hải Ngoại.

Đó là chuyện ở VN.

C̣n ở hải ngọai, xin bạn hăy nghĩ đến những ngươi lính ǵa của chúng ta, dù đă mỏi gồi, chồn chân, vẫn c̣n gĩư nguyên tấm ḷng với các chữ Danh Dự, Tổ Quốc, Trách Nhiệm.

Xin hăy giúp họ đi nốt con đường mà họ đă chọn từ thời trai trẻ và sẽ theo họ về cơi vĩnh hằng. Đó là trách nhiệm bảo vệ quê hương mà họ chưa làm tṛn, là niềm đau, là nỗi thao thức khôn nguôi:

-Mày nh́n mưa, mày nhớ ǵ không nhỉ?

Tao nh́n mưa, tao cứ măi nhớ rừng.

Rừng của quê hương những ngày khói lửa.

Tao, bao năm dài cặm cụi hành quân.

Mày nh́n mưa, mày nhớ ǵ không nghỉ?

Tao nh́n mưa, tao nhớ quá bạn bè…

Hay:

-Món nợ tang bồng bao giờ trả nổi

Mất cả sơn hà, cứ ngỡ như mơ!

      (Thơ Trạch Gầm)

Năm nay, tṛn 40 năm xa xứ, tôi gẫm lại thấy ḿnh vẫn chưa làm tṛn câu tâm nguyện, mà đường về với đất đă quá gần..Bao nhiêu lần, tôi dự định “đóng cửa” chương tŕnh Yểm Trợ TPB, lại có ân nhân gọi lại tặng tiền. Từ Afghanistan xa xôi, có anh Trần văn Chiến gửi về 700 đô la. Kế tiếp, tiền lại từ từ vào..Allen là bạn của Phạm Gia Khôi gửi về 3 ngàn đô la. Số tiền đủ cứu trợ hai ba chục TPB ở quê nhà (mỗi anh 100 đô la) nên tôi lại vội vă cầm điện thọai, xách xe đi nhận tiền và thông báo với anh em cùng Nhóm.

Lần này, ngày 30 tháng 4, 2015, kỷ niệm 40 năm tan hàng, anh em chúng tôi lo sọan danh sách để cứu trợ tặng quà cho hơn 30 Thương Phế Binh, coi như đợt chót, bởi v́ “lực bất ṭng tâm”.

Năm gần đây, hai anh trong Nhóm (Hải Lăng, Nguyễn Thanh Châu) đă trên 70 tuổi, ́ ọp vơí nhiều chứng bệnh Cao Niên, thêm bệnh Bao Tử, Tim Mạch. Mọi việc, qui lại cho anh chàng Phạm Gia Khôi đầy năng lực và nhiệt t́nh, thêm “bà già” đau chân là tôi, ngó bộ giống như xe hơi đă chạy quá 100 ngàn miles, không biết ngưng lúc nào! Làm được chút ǵ cho anh em, là Khôi và tôi không từ nan.. Chúng tôi lại tiếp tục “gồng” ḿnh vội vă đi gánh niềm tin của ân nhân để trao về cho đồng đội của ḿnh.

Tháng Tư này, trong nỗi ưu tư về sức khoẻ để quyết chấm dứt công tác mà chúng tôi đă thực hiện hàng chục năm qua, chúng tôi chân thành cám ơn vị ân nhân (ẩn danh) đă tặng 3 ngàn đô la hôm đầu năm dương lịch, với lời nhắn “làm bất cứ điều ǵ khiến chị vui là được, không cần báo cáo. Và, tôi quyết định dùng số tiền 3 ngàn đô la - tặng riêng cho cá nhân tôi - gửi về yểm trợ cho 25 anh TPB và 5 người lính Biệt Hải già yếu.

Cũng xin cám ơn chị H. (Insurance) đă tặng 102 đô la khi nghe tôi tâm sự, cám ơn MC Ngọc Tân (đài SGN), Nghị viên R. Nguyen và cô Diễm Hạnh (ái nữ của cố nhà báo Duy Sinh Nguyễn Đức Phúc Khôi).. đă tặng tiền đợt này, gọi là chút quà mọn gửi về quê nhà nhân kỷ niệm 40 năm Quốc Hận. Bạn ơi, nỗi hận này sẽ măi măi ở trong ḷng, mang xuống tuyền đài chưa tan, làm sao mà chấp thuận để cho “người ta” đổi tên là ngày “Hành Tŕnh T́m Tự Do”. V́ vậy, xin mời đọc giả đón xem tâm sự của những người Lính VNCH  trên đài SGN 51.3, trong dịp kỷ niệm 40 năm Ngày Quốc Hận, sẽ tŕnh chiếu trong tháng 4 năm nay, trong chương tŕnh “Chân Dung Người Lính” do Hoàng Minh Thúy, Hải Lăng phụ trách./.