Tùy Bút
NHỮNG NGÀY XƯA THÂN ÁI
Hoàng Minh Thúy
(Trích
Xây Dựng #292 tháng 6, 1995)
Mùa bãi trường đã
tới, nhắc nhở tôi hôm nay trời đã vào Hè. Mùa Hè ở
Hè này, năm ngoái (tháng 5 năm 1994), tôi
đang cặm cụi đi xin tiền để tổ
chức phát Học Bổng cho con em xuất sắc của
gia đình Cựu Tù Nhân Chánh Trị Hoa Kỳ. Chương trình này tôi đã “xin”
được Năm Ngàn Năm Trăm Hai Chục Đô La, để
tặng cho 6 em vừa tốt nghiệp Trung Học,
chuẩn bị cho học trình Đại Học.
Năm nay (tháng 5, 1995) nhiều phụ huynh
gọi về ơi ới, để ghi danh vì “con tôi nó
học rất giỏi” nhưng rất tiếc, quỹ
Thương Phế Binh đã cạn, nên chúng tôi phải lo
gây quỹ để giúp cho những người đang
gặp khó khăn hơn. Chương Trình Dạ Vũ
“Huynh Đệ Chi Binh” vừa chấm dứt với
kết số 25 ngàn đô la và tiền vẫn tiếp
tục được nhiều ân nhân
gửi về.
Xong công tác, tôi bắt đầu
được có một khoảng thời gian ngơi
nghỉ để ngắm nắng hè trải vàng trên
đường phố, để thảnh thơi nghe chim
hót buổi sáng trên cành cây cao, để chợt nhớ ra
rằng, sao mua hè ở quê hương mình có lắm ve
sầu, mà nơi đây chỉ thấy những con sóc
nhỏ chuyền cành, chỉ thấy bầy chim có bộ
lông màu xanh ríu rít từng đôi.
Phải chăng, chỉ vì mình không còn thơ dại
nữa, để một mình lanh quanh trong vườn,
thơ thẩn kiếm trái ổi chín cây lấp ló đâu
đó trong chùm lá xanh, hoặc ngắt một cành chùm
ruột trái vừa lớn, đưa vào miệng nhai chóp
chép, giật mình khi nghe tiếng ve cất lên kêu râm ran, inh ỏi. Cái
tuổi 12,13 của những ngày hè
năm xưa được cha mẹ cho rời Sàigòn
để về Nha Trang tắm biển, được xa
cái ồn ào náo nhiệt của Sàigòn, sống trong căn nhà
u tịch giữa một khu vườn rộng trên con
đường dẫn đến Tháp Bà uy nghi. Ba tháng dài rong chơi với
những ngày chạy sang ngôi đền nhỏ kế bên,
xem người lớn tổ chức hầu đồng và
được bà đồng trong y phục màu sắc rực
rỡ, sau một điệu nhảy, gọi đến
xoa đầu, cho vài đồng bạc hoặc trái cây, bánh
kẹo. Lũ trẻ ù té mang về, giấu
đút ở một góc vườn để nhấm nháp vì
sợ người lớn la mắng. Một lần, tôi bị Cô Hai,
người lớn tuổi nhất trong tộc, nắm
đầu, kéo cổ về, vì:
-Mi đẹp gái như ri
(như vậy), rũi đồng lên nhằm ông “Hoàng
Tử” rồi ổng nhìn thấy, ổng lôi đi thì
mấy O sẽ chết với Ba mạ mi. (Người
Huế thường gọi em gái của cha bằng O).
Tôi ngây thơ cãi:
-Ông “Hoàng tử” làm sao mà lôi con đi
được? Con..
còn con nít mà, ổng lôi con đi xuống
“đó” làm cái gì?
-Thì người lớn, ổng lôi xuống
làm….vợ. Còn con nít mà đẹp gái, dễ
thương thì ổng cho làm …tỳ nữ!
-Nhưng O ơi! Ông ta lôi con xuống
bằng cách nào?
-Thì ổng khiến cho mi bệnh hoạn
rề rề, rồi làm cho mi chết để ổng
bắt hồn mi đi!
-Con không tin đâu! Nếu ổng ngon lành sao
ổng không bắt hồn mấy tên ăn cướp,
mấy thằng ăn trộm, vật cho chết
để khỏi làm khổ người ta nữa!
Tôi trả treo với O như vậy vì tôi
nhớ ba tôi thường kể chuyện bà nội rất
giàu, bị ăn cướp mất hết của, sinh
buồn bực, bệnh hoạn rồi chết, giữa
khi ba tôi còn thơ ấu.
Buổi tối, cả bọn mượn
được “con cơ” đem về, hý hoáy, thì thụp
đợi nửa đêm, chui vào phòng cô Út, chưa có gia
đình. Rồi cô cháu nhắm
mắt, đặt tay vào miếng ván hòm
cắt hình trái tim, thành khẩn đọc bài cầu cơ
mà bây giờ bốn mươi năm rồi, vẫn còn
thuộc lào lào:
Hồn nay ở chốn non bồng
Qua đây hồn cũng vui lòng ghé chơi
Hồn bay cao bỗng tuyệt vời
Là hồn tử sĩ hay hồn giai nhân
Nén hương thơm ngát
đốt rồi
Nước thơm
sẵn có, xin mời hồn lên
Hồn lên chạy khắp bốn bên
Làm cho cơ động, cơ đi dần
dần
Kìa cơ đã động ba chân
Cơ đi lần lần, xích lại cho
…coi
Tôi nghe bà cô trẻ kể chuyện: con cơ
được cắt từ miếng ván hòm của một
cô gái còn trinh, đã qua đời vì một tai
nạn. Khi gia đình hốt
cốt, đạo tỳ lấy miếng ván hòm về, rửa
sạch cắt thành hình trái tim, đem bán cho ai thích chơi
cầu cơ.
Tôi nhìn miếng gổ cũ kỹ, gói trong
giấy điều, thấy ba cái chân của con cơ
được đóng đinh vào ba cái đinh ghim và khi
cầu cơ thì ba ngón tay của ba
người, phải đặt lên trên ba điểm này. Bà cô trẻ của tôi năm
ấy vừa quá hai mươi tuổi, độc thân nên
thường tham gia chung cái vui của
tuổi con nít 12, 13, mà cầu cơ là “nghề” của
cô. Cô đi kiếm mua con
cơ hoài không được, mỗi lần muốn
cầu thì phải đi mượn. Cô thành khẩn trong việc mang chén
gạo, pha tách trà nóng thơm nghi ngút
đặt trước miếng giấy bìa cứng
đầy những chữ, dấu, và con số, để
cơ chạy và mình thì ráp chữ, xem cơ nói cái gì.
Nhớ lần tôi
được tham dự đầu tiên, mấy cái
miệng con gái vừa đọc xong ba hồi kinh cầu,
thì cơ chuyển động, quay ngược, quay xuôi. Tôi nín thở,
thoạt đầu sợ hãi nhưng một phút sau.. tôi không tin. Tôi rút ngón tay ra,
nhìn đứa em, con của cô Hai, tôi gằn giọng:
-Ê! Mi đẩy hả! Sao… nó chạy mau
dữ vậy?
Con bé cong cớn gạt ngang:
-Đừng nói tầm bậy, hồn…
vật chết bây giờ!
Cô Út gõ đầu tôi một cái đau
điếng:
-Mi im cái miệng lại! Ôn (ông) biết.. la chết! Túi (tối)
rồi không đi ngủ!
Hai đứa em gái ngồi sau lưng tôi, ngó
chăm chú vào con cơ đang chuyển động,
chạy tới, chạy lui, lăng xăng. Thì ra hồn đang chờ người cầu
cơ muốn hỏi cái gì.
Cô Út tôi nhỏ giọng, thì thầm:
-Thưa! Hồn là ma, quỹ, hay thần
thánh?
Cơ chạy qua chữ “Ma”
rồi dừng ở đó.
Tôi không tin, cứ nhình chăm bẩm ngón tay của con Hoa,
là con của cô Hai, cùng một
lúc, tôi tì mạnh ngón tay của tôi đang đặt
hời hợt trên chân con cơ. Nhưng cơ chạy
rất mau, trở về vị thế chờ, nằm trong
hình quả tim vẽ rất khéo. Sau đó, cơ không thèm chuyển động
nữa mà cứ đứng ì ra, mặc dù chúng tôi
đọc kinh cầu liên hồi. Con Hoa buông tay
nói dỗi:
-Thôi, không chơi nữa! Tại cái chị ni! Chị không tin làm hồn giận, thăng
rồi!
Tôi cười hì hì:
-Mi đẩy! Tao không tin Ma dám vô nhà của
Ôn (ông)! Bàn thờ Phật hai ba cái trong nhà! Ma nào dám vô?
Con nhỏ giận dữ, trầm giọng
không dám lớn tiếng sợ đánh thức ông dậy:
-Vậy thì, đố chị giờ này dám
ra phía sau vườn đóng một cây cọc xuống, thì
ngày mai tôi đập heo đất lấy tiền
để dành, đãi chị đi ăn
bánh Căn mụ Hà.
Tôi cười:
-Dễ! Ngoéo tay nha! Không
đãi thì tao mét mạ mi là mi xạo! Tao không sợ đâu!
Bàn cơ dẹp sang một bên. Con Hoa đưa cho tôi một cây
đũa. Tôi lấy dao lam, chuốt nhọn một
đầu cho dễ ghim xuống đất, trong khi cô Út,
đang ngồi chăm chú lằng nghe cuộc tranh cãi
của hai đứa cháu, đứa nào cũng đang
ở tuổi Trung Học là tuổi “nhất quỹ, nhì
ma thứ ba học trò”. Con
Hoa giao hẹn:
-Phải ghim xuống đất nửa cây
đó nha, chứ không phải dính sơ sơ, tui hổng
chịu đâu!
Tất cả ngồi im trong
phòng.
Tôi mở cửa, rón rén đi
qua nhà ngang, xuống tới nhà bếp, đến chỗ
đang úm tro, lấy cục đá lớn kê nồi, mở
cửa sau ra vườn.
Trời tối đen, không một tí ánh sáng
như Sàigòn của tôi, vì trong vườn nhiều cây
cối quá, lại lọt thỏm vào một cái hẻm
lớn mà đèn đường không soi thấu. Tôi muốn quay vô nhà nhưng
tự ái nên bậm gan, chạy ra chỗ cây ổi như
lời đã hứa với con Hoa, cúi xuống, tay cầm
cây đũa đã vót nhọn, tay cầm cục đá,
đóng liên tục, thật mạnh cho cây đũa vào lòng
đất. Khi
biết chắc cây đũa đã ghim xuống đất
đến gần phân nữa, tôi đứng dậy
chạy vụt vô nhà.
Nhưng trời ơi! Ai đó đã kéo áo tôi lại. Tôi không đứng dậy
được! Sợ quá, tôi la bải hãi,
gọi tên cô Út. Hình
như cả nhóm đang theo dõi tôi từ nhà bếp, nên
tiếng kêu của con bé vừa bật ra là cô Út xuất
hiện với cây đèn pin, trong khi mấy đứa
nhỏ không đứa nào chạy theo.
-Mi la dữ vậy! Ôn dậy
là bị đòn, bị chửi.
Thì ra, khi khom người xuống để
ghim cây đũa, tôi đã.. đóng luôn vạt áo vào nền đất,
cho nên khi đứng lên tôi bị kéo ghì lại.
Lần đó, tôi được ăn bánh
căn con Hoa đãi, vì
dám ra vườn ban đêm, nhưng cũng
tởn hồn vì Hoa lý luận:
-Người khuất mặt họ linh
lắm. Họ…khiến như
vậy cho chị
biết mặt. Họ không nỡ
hại chị đó thôi.
Mùa Hè sau, tôi tham dự cuộc
cầu cơ với tất cả lòng thành kính, vì con cơ
tiên đoán tôi thi đậu Trung Học và nói đúng tên
của ba tôi. Hôm ngày rằm, mon men vào chỗ
hầu đồng,
thì cô Út bảo:
-Mi… chừ đã trắng da dài tóc, ra mã con
gái rồi, đừng lang thang qua
đền, xui mà gặp ông Hoàng tử lên, ổng …bắt
hồn!
Từ đó, mỗi lần ra Nha Trang, tôi
không qua đền, không phải vì sợ ông Hoàng tử
bắt hồn, mà vì đã tới tuổi mơ mộng,
thích lang thang trong vườn nghe ve sầu kêu để làm
thơ, thích ra biển lúc hoàng hôn để ngắm trăng
lên, nhìn mặt trời xuống. Cô Út đi lấy chồng
nên không có ai mượn con cơ về để cầu
xin, để bói toán vẫn vơ. Cái
tuổi 12,13 nhảy lò cò, đánh
đũa, chơi thiên đàng địa ngục, rồng
rắn lên mây, cút bắt, bị mắt bắt dê…v…v… nay
đã hết. Tuổi 15, 16
thêu thùa may vá, làm thơ đã đi qua. Tuổi 18,20 cặm cụi sách đèn chưa chấm
dứt thì chiến sự ngày một khốc liệt,
đường xe lửa thường bị đặt
mìn nên chị em chúng tôi không còn được đi
nghỉ hè ở Nha Trang nữa, thì nhận tin chồng cô Út
tử trận, để lại cho cô hai đứa con
nhỏ xíu.
Một chục năm sau, khi đang làm
ở USAID, tôi có việc ghé Nha Trang, gặp lại mấy
đứa em con cô, con cậu ngày xưa...Bây giờ ai
nấy đã lập gia đình, bận rộn với
cơm áo, nuôi dạy con cái. Chúng tôi nhắc
chuyện mùa Hè của một ngày xưa thân ái mà lòng rưng
rưng. Những lần
ghé lại chốn cũ, tôi cũng đi ăn
hàng, những hàng quà của mùa hè năm xưa như: bánh
căn, bánh khoái, bún cá, nem nướng Ninh Hòa, chè đậu
ngự chợ Đầm.
Tất cả vẫn vậy, nhưng không tìm
được cái hương vị của tuổi 13,15, lúc đó sao mà ngon tuyệt vời. Tôi ra bãi biển,
ngồi phệt xuống bãi cát, nhớ da diết tuổi
nhỏ hồn nhiên với những buổi chiều
nắng ấm. Sau cuộc tắm mát, được
ăn cơm nắm với ruốc hoặc cá bóng thệ
kho khô, hoặc với chả Huế dòn tan, tung
tăng bắt còng khi mặt trời xuống. Về nhà, tôi giành cái giường
ngủ nằm cạnh cửa sổ, để ngắm
trăng, thưởng thức hương hoa thơm
ngào ngạt từ ngoài vườn theo gió thoảng vào: hoa
khế, hoa bưởi, hoa ngâu, hoa mận… Bây
giờ, biển xanh vẫn còn đó, sóng vẫn ì ầm, mà
trong đời sống đã có bao nhiêu đổi dời.
Ông tôi đã qui tiên. Những cây ăn trái ngày xưa
nay đã tàn lụi, thay vào đó cô Hai tôi cất thêm nhà
ngang, nhà dọc cho con cháu nay đã tăng trưởng
đầy đàn.. tá
túc. Đám anh em con chú, con bác, con cô, con cậu… người
đã trở thành ông lớn, bà lớn; có kẻ ở nấc thang cuối
của xã hội với những nghề lao động
cực khổ. Có anh đã phủi chân leo
lên bàn thờ sau mấy năm vào lính; có chị, có em đã
quấn vòng khăn tang cho cha, cho chồng. Tất cả chỉ còn là một
cái bóng kỷ niệm, mù mờ trong võng mô của ánh mặt
trời sắp lặn… Đó là những ngày
cuối cùng của một Nha Trang dễ thương vào
tháng 12 năm 1974.
* * *
Tôi vượt biên, rồi may mắn
đến Hoa Kỳ (1982). Hôm nay.. buổi
chiều mùa Hè, tôi mở máy thâu thanh, tình cờ nghe bản
“Nha Trang Ngày Về”, sau đó được nghe một bài
hát phổ biến nhân Kỷ Niệm Ngày Quân Lực..
Người ca sĩ nỉ non,
thương tiếc người lính đã vị quốc
vong thân, để lại chiếc nón sắt ngày nào anh
ấp ủ, nằm bơ vơ bên bờ kinh rạch
đìu hiu lau sậy… Bây giờ anh ở
đâu? Anh ở đâu?
Những ca từ sầu muộn buồn bã,
khiến tôi lại nhớ đến những ngày hè xưa
cũ, cô Út hay dùng chiếc nón sắt để giã
đậu phụng, làm cơm nắm muối mè, thức
ăn cho bầy trẻ con đi biển… Chiếc
nón sắt sau khi dùng xong được úp trên một nhánh
cây gẫy ngang, sau giếng nước. Không biết rằng, khi tôi
được trở về thăm Nha Trang lần
nữa, cô Út có còn đó và những khuôn mặt bà con xưa
có còn chăng, sau một cuộc đổi đời dài,
đầy biến động?
Hoàng Minh Thúy
(Xây Dựng số 292, phát hành ngày 24 tháng 6,
1995).