Những Cấp Chỉ Huy Đáng
Kính...
Có Người Bạn Đáng Kinh
MX Lê Quang Liễn
(Tạp chí Xây
Dựng – Năm thứ 35 – Số 887 – Phát hành ngày
14-4-2018 tại
Lời Nói
Đầu:
Tại sao tôi viết bài
này với cái tựa đề “kỳ
cục” như thế, chỉ khác nhau một cái
dấu.
Tại vì tôi có
những cấp chỉ huy đáng kính, trong
đó có Niên Trưởng Nguyễn Xuân Phúc
và Niên Trưởng Phạm Văn Sắt là
cấp chỉ huy trực tiếp của tôi.
Đức tính đáng kính nhất của
2 NT là trung thực và tôn trọng đơn
vị bạn. Đã hơn một lần NT Phúc
“chỉnh” tôi về việc báo cáo không đầy
đủ về hoạt động của đơn
vị Địa Phương Quân trong vùng.
Tôi viết về Anh Phúc và
Anh Sắt gửi đến một
người bạn đồng khóa “đáng
kinh” của hai anh để lấy đó làm
gương, nhất là đức tính khiêm
nhường của Anh Sắt mà ông bớt
tự cao tự đại, bớt “nổ”
đi. Là cấp chỉ huy, coi mình là thông minh
về kiến thức sử dụng B52 nên ông
đã cho B52 nổ trên đầu đơn vị
bạn. Vị đó là Redhat Lê Minh Ngọc (LMN).
Trong một email
viết về trận tái chiếm Cổ Thành, Redhat
đã viết như sau:
***
From: LMN. <redhat@yahoo.com.
.....Như
Trương đăng
Sỹ mô tả lại, TĐ5ND đă tấn lên đến mặt Cổ Thành, th́ được
lệnh rút ra, cho B52 làm
việc.
TĐ5ND chỉnh bị
hàng ngũ,
để xong màn đánh bom,
là lại húc nốt cho
xong. Nhưng có một bất
ngờ chưa bao giờ xảy
ra: Trong khi đánh bom,
ND được lệnh
rút ra án
ngữ về mặt tây và
bắc, để cho TQLC .. vào thay thế. Và TĐT
TĐ6/TQLC đi húc cú này,
lại cũng là một anh
bạn K16 khác: Hiệp sĩ Mù Sói Biển
Ng Văn Cảnh .. Thế là TQLC chiếm cổ thành Đinh công Tráng sau
cùng”
(Hết trích).
***
Còn Trương Đăng Sỹ,
ĐĐT51/TĐ5ND lại viết về trận đánh
đó như sau:
***
“...Khi màn khói vừa tan, địch quân bắt đầu trả đũa dữ dội. Nặng nhất là hai
lô cốt ở mặt tiền và giữa sân
cột cờ Tiểu khu, địch c̣n ngoan cố trong hầm hố bắn trả rất mạnh. Tôi tung
thêm vào thành một trung đội, bung rộng đội h́nh vừa đào hầm hố, vừa chống cự.
Phi cơ quan sát
L19 bao vùng báo tôi biết
địch từ phía Bắc sông Thạch Hăn tràn qua như
kiến! Tôi một mặt xin pháo binh
yểm trợ, một mặt xin tiếp phi tuần oanh kích...”
(Hết
trích)
***.
Vì “đức tính” tự cao và
thích tiếng nổ của B52 nên cả hai vị trên
đều nói không đúng với thực tế
chiến trường của cùng một sự kiện lúc
bấy giờ - ngày 26 tháng 7 năm 1972.
(Xin đọc “Cổ Thành Quảng Trị...Trị Thiên
Vùng Dậy” của BCD Lê Đắc Lực trong Sóng Thần
2018 hoặc “Tàn Cơn Binh Lửa” trang 137-138 của BCD Lê
Đắc Lực).
Điều tối kỵ khi viết về hồi
ký chiến trường là không “lịch
sự” với đơn vị bạn, viết
không đúng. Hai ông Ngọc-Sỹ chỉ v́ cái “Tôi” quá
lớn, mà viết ra những điều không sát
với thực tế, đã không cần
biết gì đến vì sao mà 3658
quân nhân TQLC đã hy sinh và nhiều ngàn TQLC bị
thương cho chiến thắng Thị Xă & Cổ Thành
Quảng Trị ngày 15 tháng 9 năm 1972.
Chúng ta có thể
“xạo” với người sống, nhưng không
thể nói dối với người chết,
các anh linh biết hết nhưng không thèm nói,
v́ anh linh các tử sĩ và máu xương của
đồng đội, tôi là người có
mặt tại chiến trận từ khởi
sự cho đến kết thúc đành
phải xin phép hai NT Phúc-Sắt mà trả
lời NT “rét-hét” LMN như sau:
***
... Là cấp chỉ huy tác chiến,
có lẽ NT phải biết tầm an toàn cho đơn vị bạn. Trước năm 1968 khi sử dụng B52 phải 3km, đến lúc người Mỹ biết VC lợi dụng điểm đó để di chuyển vào trong tầm
an toàn (trong trận tiền đồn Cồn Tiên ở vùng DMZ) th́ HK phải thay đổi vùng an toàn cho
friendly forces là 1.4 km. Mỗi
thước đất,
mỗi khu vườn ở QT lúc bấy giờ đẩm máu các anh em
ND, TQLC,... th́ làm ǵ có
vụ ND de lui để B52 làm cỏ VC? Vả lại phía Bắc vùng CT, TQLC cũng đă đánh chiếm trục tiếp tế của CSBV trên tuyến đường
560 vào Quảng Trị. Trong cái khung khép
kín đó, rủi ro cho
quân ta rất
lớn nếu có B52 yểm trợ.”
Tôi
rất kính trọng các niên trưởng và các
cấp chỉ huy cùng tất cả anh hùng Mũ
Đỏ, nhưng với “NT Đáng Kinh”, tôi không
biết phải nói gì...Trong Binh Chủng TQLC, tôi
có tất cả các cấp chỉ huy, các niên
trưởng đáng kính, đồng
đội và đàn em đáng phục,
nhưng trong phạm vi tìm một tấm gương
sáng cho ông LMN, tôi chỉ xin nói đến 2 NT
đồng khóa với LMN, đó là: NT
Nguyễn Xuân Phúc và NT Phạm Văn Sắt:
Niên Trưởng Nguyễn Xuân Phúc:
Hạnh phúc với tuổi thơ
Cuối năm 1971, sau khóa học quân sự
tại Trường Bộ Binh Thủ Đức, tôi
được thuyên chuyển về TĐ2/TQLC. Đến phi trường Đông Hà
buổi chiều mùa Đông nhiều mây xám vào gần
cuối năm, trời mưa và thật lạnh với cái
rét thấu xương của miền Trung. Tiểu đoàn
đang đóng quân gần Đông Hà nên NT Nguyễn Xuân Phúc
cho xe đón tôi, gặp tôi ông cười vui vẻ nói:
-Cuối
năm 69 ông chê TĐ2 v́ không chịu làm tham mưu, nên
lần này tôi xin ông về chỉ để đánh nhau thôi,
tôi giao Đại Đội 4 cho ông đó.
-Thưa Trung Tá tôi rất mừng được
về đây, dầu sao Trung Tá không giận thằng em.
Vả lại, lúc đó tôi thấy bó tay bó chân khi ở
BCH/TĐ. Tánh tôi ưa hoạt động độc
lập. Xin cám ơn Trung Tá”.
Lời chào mừng có ư nhắc
lại thời kỳ năm 1969, sau khi tôi măn khóa Basic School
tại Quantico, Hoa Kỳ tức Khóa học Căn Bản
Sĩ Quan TQLC/HK và thuyên chuyển về “Khối Bổ Sung”
để chuẩn bị cho TĐ8/TQLC tân lập. Thời
gian sau đó, tôi được chuyển về TĐ2/TQLC
trong chức vụ Sĩ Quan HQ&HL, nhận thấy các
ĐĐT là các NT/K19 của tôi cả nên tôi thấy không phù
hợp trong nhiệm vụ và xin NT cho tôi ra đại
đội tác chiến, nhưng NT Phúc nói chờ vài
tháng v́ đang kẹt nhiều sĩ quan thâm niên mà
Tiểu Đoàn thì chỉ có 4 đại
dội nên sau đó tôi được về lại
“Khối Bổ Sung” v́ nhu cầu cán bộ cho TĐ8/TQLC .
NT Nguyễn Xuân
Phúc rất nổi tiếng v́ là Á Khoa K16 TVBQGVN. Trong thời
gian thụ huấn NT là Tiểu Đoàn Trưởng trong
hệ thống tự chỉ huy của SVSQ, được
đồng khóa và các khóa đàn em kính mến,
được đàn em tặng biệt danh “Robert Lửa”
. Trong BC/TQLC, NT từng lần lượt giữ các chức
vụ từ cấp trung đội trưởng cho
đến tiểu đoàn trưởng, và sau cùng
là Lữ Đoàn Trưởng Lữ
Đoàn 369/TQLC.
Điểm nổi bật
của NT là trung thực, thẳng thắn, hết
sức tôn trọng các đơn vị bạn khi
giao tiếp. Sống với đồng đội,
thuộc cấp thì NT thật b́nh dị như anh em,
đi hành quân cũng nằm đất trên tấm poncho
hoặc trên chiếc vơng như mọi người. NT Phúc
nghĩ nhiều về sự an nguy, và quyền lợi
của thuộc cấp. Đặc biệt NT rất nghiêm
nghị, trầm tư lúc hữu sự, đôi mắt to,
sáng quắc, long lanh khác hẳn những lúc sinh hoạt b́nh
thường. Điều này cũng làm cho các vị cố
vấn TQLC/HK đi cùng phải im lặng và chờ lịnh
từ NT.
(Nguyễn Xuân Phúc
vui với phóng viên chiến trương)
Một kỷ
niệm khó quên với người NT đáng kính là trong
một lần tôi về phép Sài G̣n vào năm 1974, thời
gian này NT đang theo học khóa Chỉ Huy & Tham Mưu
tại Long B́nh. NT hẹn tôi đón ông tại ngă tư
Thủ Đức và Xa Lộ Biên Ḥa lúc 6 giờ chiều.
Th́ ra NT quá giang xe của bạn bè từ Sài G̣n- Long B́nh
mỗi ngày để đi học. NT có thời gian hơn
6 năm giữ những chức vụ chỉ huy, mà lúc
đi đáo nhậm đơn vị mới chỉ
chạy cái xe Lambretta cũ mèm. NT có cuộc sống rất
thanh bạch. Vị Tư Lệnh nói:
-Phúc nó
nghèo, vì lúc nào nó cũng sợ
lính bị đói.
Là TĐT/TĐ2
nhưng NT đă chứng tỏ khả năng chỉ huy
cao hơn trong cuộc HQ Lam Sơn 719 trên chiến
trường Hạ Lào năm 1971, trong t́nh thế bị bao vây và chia cắt,
suốt hơn một tháng tham dự, vị Lữ Đoàn
Trưởng 147 bị suy sụp sức khỏe, trong vai
trò Tiểu Đoàn Trưởng bảo vệ
Lữ Đoàn, NT đă không ngần ngại hay
chờ lệnh mà nắm ngay quyền
điều động các đơn vị, xin hỏa
lực yểm trợ của Không Quân Hoa Kỳ qua hệ
thống Cố Vấn TQLC tại Khe Sanh. Trên hệ
thống truyền tin của LĐ/147TQLC, tiếng nói
thường trực 24/24 của NT đă đem lại
sự an tâm cho tất cả đơn vị thống
thuộc .
NT đã điều động các dơn
vị đến điểm tập trung an toàn để
được trực thăng bốc về Khe Sanh,
TĐ2/TQLC là thành phần bao chót của Lữ Đoàn 147.
“Gian Nan
Thử Sức”, trước tình thế nguy
ngập khó khăn mới biết ai là “Cây
Tùng Trước Bão”. NT Nguyễn Xuân Phúc
là một người như thế.
Sau hơn 4 tháng hành quân tăng
phái cho Quân Đoàn I, TĐ2 trở về hậu cứ để bổ sung quân số
và tái trang bị chưa được 2
tuần lễ, chưa có ngày phép nghỉ
ngơi thì ngày 3 Tháng 4 năm 1972, TĐ2/TQLC đã
phải trở lại chiến trường Quảng
Trị khi CSBV bắt đầu chiến dịch Nguyễn
Huệ. Vùng hành quân trách nhiệm của TĐ2/TQLC phía Tây – Nam Thị Xă Quảng Trị.
Trong gần suốt Tháng 4 năm 1972, Đại Đội
4 của tôi trấn thủ và chịu đựng pháo
địch ngày đêm tại căn cứ Barbara, vị trí
xa nhất gần 10km về hướng Tây của Quốc
Lộ1, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 2 cách căn cứ
Barbara khoảng 8km, các đại đội tích cực t́m
kiếm và tiêu diệt các toán trinh sát CSBV đang bám sát quân ta
hoặc phát giác các ổ pḥng không của địch trên các
hốc núi, triền đồi để phi cơ oanh kích
chúng. Trong tuần lễ thứ hai của Tháng 4, Trung
Đội/Viễn Thám do Th/Úy Nguyễn Văn Đợt
chỉ huy sử dụng con đường nối liền
từ QL1 – Barbara (có từ thời QĐ Hoa Kỳ)
để hoán đổi cho Trung Đội/VT bạn
tại Barbara, đă bị CSBV phục kích gây thương
vong, một số bị bắt .
Áp lực địch ngày càng gia tăng nhất là
hướng Bắc, Tây- Bắc của Sư Đoàn 3 và các
đơn vị tăng phái. Trước t́nh h́nh rất
căn thẳng của khu vực hành quân NT Phúc đă h́nh
dung sẽ có lúc phải rút “đứa con” (Đại
Đội 4) xa nhất về , NT đă ra lịnh cho
Đại Đội 1 là đơn vị gần tôi
nhất, phải âm thầm phát rừng mở một con
đường mới, xuyên rừng và cách con
đường cũ khá xa. Về phần tôi, cũng
chỉ phải phát rừng gần 200m để gặp
Đại Đội 1. Trong ṿng 5 ngày hai đại
đội đă thông được con đường, mà
công lao của Đại
Đội 1 là chính. Từ đây, mọi tiếp tế
lương thực, bổ sung... cho đơn vị tôi
đều xử dụng con đường kín đáo này
một cách an toàn.
Với tầm nh́n xa và sự nhạy bén t́nh h́nh
của cấp chỉ huy kinh nghiệm mà NT đă đưa
ra những kế hoạch đúng lúc, đúng
chỗ, bảo đảm an toàn cho Đại Đội 1
và Đại Đội 4 về sinh mạng và quân dụng
khi có lịnh rút TĐ2/TQLC về thiết lập tuyến
pḥng thủ Mỹ Chánh vào đầu tháng 5 năm 1972.
Tại pḥng tuyến Mỹ Chánh vào đầu tháng
5/1972, trước áp lực của nhiều sư đoàn
CSBV với kế hoạch tiến về Thành Phố
Huế, Đại Tá Phạm Văn Chung -LĐT 369/TQLC-
đă tín nhiệm, giao phó, và xác nhận NT Phúc có
quyền hạn như một Lữ Đoàn Phó để
phối hợp chỉ huy các TĐ5 và TĐ9/TQLC khi t́nh
thế diễn biến phức tạp và bất ngờ.
Bản tính đạo đức, liêm khiết, quan tâm
đến thuộc cấp, xông xáo trên chiến
trường với những tính toán có tính chiến thuật
... Thật sự trong thâm tâm
tôi rất an ḷng khi thi hành mọi nhiệm vụ mà NT
Phúc giao phó với tất cả ḷng nhiệt thành
của tuổi trẻ v́ rất tin tưởng vào
những quân lịnh có tính toán sắc bén của NT.
Ngoài
chiến trường, khả năng chỉ huy và
tài lãnh đạo của cấp chỉ huy là
quyết định sống chết cho thuộc cấp, NT
Nguyễn Xuân Phúc đã hoàn thành nhiệm
vụ đó một cách xuất sắc
khiến thượng cấp, đồng đội
và thuộc cấp đều mến phục.
Mạng
sống trời ban cho thật đáng quý,
nhưng càng quý hơn khi một cấp chỉ huy
biết chia xẻ mạng sống với thuộc
cấp vào giờ phút tử sinh.
Sáng
ngày 29/3/1975, chính xác là từ 7-10
giờ, Lữ Đoàn Trưởng
Lữ Đoàn 369/TQLC Nguyễn Xuân Phúc cùng
Lữ Đoàn Phó Đỗ Hữu Tùng
ngồi bên những máy truyền tin ngay bờ
biển Non Nước mà không quan tâm tới
việc những quân nhân khác đang lên 2 chiếc
tàu HQ đậu gần đó, vì các Niên Trưởng còn liên lạc và chờ
đứa con, TĐ9/TQLC của Thiếu Tá Lâm
Tài Thạnh, đang từ xa rút về.
Nhưng buồn thay, VC đã pháo kích trên
bãi biển và tàu HQ rồi 2 NT Phúc Tùng
đã biến mất trong khói lửa mịt
mù! TĐ9/TQLC mất liên lạc với cấp
chỉ huy đành tử thủ và quyết
tử với địch quân đông gấp
nhiều lần.
Khi hay tin NT
Nguyễn Xuân Phúc đă biến mất, nhưng tôi cứ
thầm mong có một phép lạ nào đó để NT
sẽ trở về . NT thật xứng đáng một
cấp chỉ huy tài ba, một đồng đội,
một người anh ĐÁNG KÍNH.
Thế
còn vị “đáng kinh” kia, vào giờ
phút cuôi cùng ông ở đâu, làm gì
mà ngày nay ở hải ngoại ông “nổ”
thế!
Niên Trưởng Phạm Văn Sắt.
Trong số
những Khóa16/VB t́nh nguyện về TQLC, Niên
Trưởng Phạm Văn Sắt là một trong những
người nổi bật của khóa, NT Sắt bị
thương đến 5 lần: 1 lần trong chức
vụ đại đội trưởng, và 4 lần khi là
tiểu đoàn phó TĐ3/TQLC. Trên người NT những
vết thương chiến tranh ghi dấu khắp nơi,
đặc biệt vùng bụng với những vết
sẹo dài, sần sùi. NT là người được
giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng
trước tiên, đồng thời với NT Nguyễn Xuân Phúc, cho nên, cuộc
đời binh nghiệp của NT cũng rất sôi
động khắp 4 vùng chiến thuật, góp
nhiều chiến công cho Binh Chủng. Nhưng điều
đáng nói, đáng làm gương cho...
là nghệ thuật lãnh đạo và chỉ
huy của NT trong quân ngũ cũng như bên hành chánh.
Lần
đầu tiên khi tôi tŕnh diện NT Phạm Văn Sắt
tại TĐ8/TQLC tân lập, tôi có cảm giác vừa an tâm
và kính nể v́ NT đón tiếp tôi rất ân cần,
dặn ḍ rất chi tiết của một cấp chỉ
huy quan tâm đến thuộc cấp và đơn vị.
Tại doanh
trại, NT thường bất ngờ xem xét nơi ăn
chỗ ở, đặc biệt bếp ăn của binh
sĩ, khuyến khích các đại đội tổ
chức các hoạt động thể thao, thể dục
nhằm tăng cường thể lực và tạo không
khí vui tươi trong đơn vị.
Trong thời gian
Tiểu Đoàn 8 hành quân ở Nông Sơn, NT ưu tiên
cấp phép cho các quân nhân quê quán quanh vùng Quảng Nam,
Thừa Thiên. Đây là một
yếu tố tâm lý chỉ những
người biết lãnh đạo mới
nhìn ra, NT tự tin vào thuộc cấp không
sợ anh em đảo ngũ mà chính thuộc
cấp đã tin tưởng hơn nữa
vào cấp chỉ huy.
Sau mỗi lần hành quân về lại
hậu cứ, thường đoàn xe đến cổng
trại vào xế chiều hoặc rất khuya. Theo thông
lệ, các đại đội đều viết
sẵn giấy phép để cấp cho anh em quanh vùng
Sài G̣n – Gia Định tạm về thăm gia đ́nh ngay sau
những ngày mong đợi. Những
ngày sau đó, tùy tình hình nhiệm
vụ trong tương lai và biết
được ý định của Bộ Tư
Lệnh, Tiểu Đoàn Trưởng Phạm
Văn Sắt cấp 5 ngày phép đặc biệt cho
tất cả các quân nhân. Trong không khí vui mừng, các quân nhân
lại được xe GMC của tiểu đoàn chở
ra đến chợ Thủ Đức và ngược
lại, tiết kiệm thời gian và túi tiền cho anh em
hơn cả tiếng đồng hồ thay vì phải
đi xe Lam 3 bánh. NT là người cuối cùng rời doanh
trại, sau khi đă đi kiểm tra pḥng ngủ của
các đại đội, để yên tâm rằng tất
cả quân nhân đă rời hậu cứ.
Nghe
có vẻ “lý tưởng hóa” cấp
chỉ huy, nhưng đây là sự thật
đã được tác giả Giang Văn
Nhân, một sĩ quan kỳ cựu của TĐ3/TQLC,
ghi lại trong tác phẩm “CHẶNG
ĐƯỜNG NỐI TIẾP”, tôi xin trích
đoạn như sau (*):
***
-Thiếu Tá Sắt đi
lướt qua phía sau các đại
đội, Ông nhìn và lắng nghe tâm sự
vụn vắt và ước muốn trong
mấy ngày ở hậu cứ của các
anh em binh binh sĩ tỉ tê khi đang lau chùi vũ khí...hiểu
được những ước mong thầm
kín của anh em binh sĩ sau mỗi lần hành
quân về, khi đi ngang qua tấm bảng “CẤM
TRẠI”, Ông đứng lại, nhìn tấm
bảng hồi lâu, rồi Thiếu Tá Sắt ra
lệnh cho người Hạ Sĩ Quan trực:
“Nhờ Trung Sỉ cất tấm bảng “Cấm
Trại” dùm tôi. Sau đó Ông cho lệnh tập
họp các đại đội và nói:
-Tiểu Đoàn sẽ xả
trại và cấp 5 ngày phép đặc
biệt cho mọi người. Tôi muốn 5 ngày
là 5 ngày, anh em phải về trình diện cho
đầy đủ...
Niềm vui bất ngờ,
tất cả la to như muốn vỡ bầu không
khí... doanh trại dần dần thưa thớt,
Th/Tá Sắt đi vòng quanh khu nhà ở
của binh sĩ để kiểm soát, nghe có
tiếng chuyện trò văng vẳng, ông
bước vào, 4 người lình vội
đứng nghiêm chào, Ông thắc mắc
hỏi:
-Các em đã nhận
giấy phép chưa?
-Thưa Tbiếu Tá chúng em
đã nhận rồi.
-Nếu có rồi thì
các em rời khỏi đây ngay..
-Quê chúng em ở xa, không
có tiền nên ở lại trại có cơm
ăn chỗ ngủ.
-Các em đi theo tôi...
Thiếu Tá Tiểu
Đoàn Trưởng dẫn 4 người
lính xuống Ban Quân Lương và chỉ thị cho
nơi đây làm giấy ứng tiền lương
trước cho 4 anh em này và cả những ai
cần tiển để về thăm gia đình
ở xa...
Thiếu Tá Phạm Văn
Sắt đã mang niềm vui bất ngờ cho
TĐ3/TQLC và đây là chuyện hiếm có
ở cấp tiểu đoàn trong Binh Chủng TQLC.
***.
(*)
Đây chỉ là một trích đoạn trong
“Niềm Vui Bất Ngờ” của tác giả Giang
Văn Nhân nên tôi không thể diễn tả hết niềm
vui sướng của người lính
được đi phép sau mỗi lần hành
quân trở về, dù đó là quyền
lợi của người lính, nhưng vì
lý do hành quân nên “quân bị hành”
thường bị cấp trên quên những ngày
phép quý giá đó.
Kỳ diệu
thay, đại đa số anh em trong khu vực Biệt Khu
Thủ Đô và các tỉnh lân cận đều về
đúng phép, một số nhỏ ở xa như miền
Trung trễ vài ngày v́ phương tiện vận chuyển
đều được thông cảm.
V́ bị
thương nặng, cần dưỡng thương lâu
dài, năm 1968, NT Sắt được thượng
cấp đề bạt chức vụ Quận
Trưởng Quận Thủ Đức. Thời gian
giữ chức vụ hành chánh này NT cũng được
dân và quân trong quận truyền tai nhau về nhiều giai
thoại như sau:
-Ông Quận
không cho bà xă quá giang xe Jeep của quận.
-Nghiệp đoàn xe Lambretta 3 bánh
Thủ Đức được ông Quận nâng đỡ
bằng cách giảm thuế. Nhớ ơn và kính phục
họ mang quà đến mà ông Quận không nhận.
NT đă có
lần tâm sự với tôi một cách chân t́nh và cởi
mở:
-Anh về Quận Thủ
Đức gần Sài G̣n mà có xin ai đâu, biết rằng
trong phạm vi Quận có nhiều cơ sở kỹ
nghệ, với máu nhà binh trong người nên anh cho
lực lượng quân sự địa
phương tăng cường pḥng thủ, canh gát cẩn
mật các cơ sở đó. V́ nghĩ rằng: ông Quận
là TQLC, nếu để VC phá hoại các cơ sở kinh
tế huyết mạch này th́ mất thể diện TQLC.
Các ông giám đốc cám ơn công việc của anh,
lại đem quà biếu. Anh phải giải thích đó là
việc phải làm của quận và anh từ chối.
Tôi nghĩ cũng v́ các việc làm
phải, đạo nghĩa, thuận ḷng dân nên sau khi đi
tù VC về, NT và gia đ́nh vẫn sinh sống b́nh an trong khu
vực Thủ Đức.
Một thời gian sau ngày ngưng
bắn 28 tháng 1 năm 1973, SĐ/TQLC có kế hoạch thay
đổi các đơn vị trưởng. Khi
được tham khảo về việc NT sẽ ra
nắm lại chức vụ tiểu đoàn trưởng,
NT đă khéo léo từ chối với lư do:
-Xin ưu tiên cho anh em trẻ v́ họ
rất có công trong thời gian qua.
Tấm ḷng của NT thật bao
dung, thông cảm những ước mong trong binh nghiệp
của tầng lớp trẻ đă có nhiều hy sinh, đóng
góp công trận lớn trong những năm chiến
trường thật khốc liệt 1971-1972.
Trong thời gian
đi tù ngoài Bắc, MX Nguyễn Cao Nghiêm K20 lại cho tôi
biết NT Sắt hay giành gánh phần lao động
nặng thay cho đàn em như: khiêng cây th́ khi nào NT cũng
chịu phần gốc nặng hơn và buộc Nghiêm
phải vác đầu ngọn v́ nhẹ hơn...
NT xử sự
với thuộc cấp cả quân lẫn dân như một
người anh, một công bộc rất chí t́nh và tận
tụy.
Thay Lời Kết.
Các NT là h́nh ảnh của lớp
sĩ quan trẻ được đào tạo sau Hiệp
Định Genève 1954: có học thức, chiến
đấu có lư tưởng, trưởng thành trong
chiến trận, do được hấp thụ tinh hoa
của nền giáo dục học đường và đào
tạo quân sự của Việt Nam Cộng Ḥa.
Những kỷ niệm
của bản thân, hoặc được bạn bè kể
lại trên được ghi chép rất chân thật,
từ đáy ḷng, không có màu mè thêm bớt về NT Nguyễn
Xuân Phúc và NT Phạm Văn Sắt. Cho nên, tôi cảm
thấy vô cùng may mắn được phục vụ
dưới quyền của hai cấp chỉ huy với đầy đủ tài
lănh đạo chỉ huy, liêm khiết, nhạy bén về
chiến thuật, và là những tấm gương sáng cho
quân nhân dưới quyền. Các Anh sẽ là
những vị chỉ huy cao cấp và lãnh
đạo lý tưởng trong tương lai,
nhưng rất tiếc...!
Những kỷ niệm và
những bài học từ các Anh làm cho ḷng tôi ấm lại
và hănh diện mỗi khi nghĩ và kể lại cho bạn
bè trong và ngoài binh chủng về hai vị Niên Trưởng
thuộc K16/VB: Nguyễn Xuân Phúc và Phạm Văn
Sắt.
MX Lê Quang Liễn K20.
Houston, Tháng 3
năm 2018