Những Cái Tết
Của Đời Tôi.
Mũ Đỏ Út Bạch Lan
(Tạp chí Xây
Dựng – Năm thứ 36 – số 908 – phát hành ngày 2-2-2019
tại
Thuở lên năm
lên sáu, cứ mỗi độ gió chướng
từ biển G̣ Công rào rạt thổi vào thành phố
đ́u hiu nghèo nàn quê tôi, căm giác xuân về làm ḷng tôi như
rạo rực đợi chờ từng ngày. Tuần
lễ trước Tết cuối năm âm lịch, Me và Chị tôi tất bật với bếp
ḷ nào bánh chưng bánh tét, nào dưa giá, dưa hành, xuôi
ngược chợ búa mua sắm nhang đèn hoa quả và
quần áo mới cho các anh chị em tôi. Mấy anh em trai tôi
th́ h́ hục lau chùi đánh bóng ba bộ lư, chân đèn,
mâm đồng, mấy bộ tủ bàn ghế cẩn xa
cừ, phụ Cha tôi dựng cây nêu trước sân nhà trong
không khí náo nức chờ đợi đêm giao thừa
để được ăn bánh tráng cuốn thịt kho
tàu dưa giá...và nhất được thay quần áo
mới chờ bố mẹ “ĺ x́”, chơi lô tô, chờ
nữa đêm giờ giao thừa kéo nhau ra sân bắn
ống tre hơi khí đá thay cho pháo đùng. Thời gian
hối hả xô đẩy tôi tuổi lớn dần cho
đến khi lên đến trung học rồi đại
học, h́nh như tôi không c̣n cái cảm giác “xuân về
tết đến” như lúc c̣n ấu thơ với gia
đ́nh, và cho đến khi vào lính.
Hai
năm quân trường Vơ Bị Đà Lạt đổ
mồ hôi, tốt nghiệp ra trường đúng vào
Tết Mậu Thân (12/1967). Cái Tết đau
buồn đẫm máu và nước mắt trên khắp
mọi nẽo đường đất nước.
Có
cần nhắc lại ở đây hay không? Dạ thưa
không!
V́ ai
cũng biết, ai cũng đă trải qua và ai cũng không
thể quên những ngày Tết đó. Cái Tết mang
vết thương khằn vết sâu quắm vào tiềm
thức của mọi người, cái Tết mà bọn
khát máu man di mọi rợ móc bỏ trái tim của chính ḿnh
ra ngoài, để vào từng nhà đêm giao thừa hay sáng
mùng một Tết, lôi cả cha mẹ vợ con bạn bè
thân bằng quyến thuộc ra trước cữa nhà hành
huyết tại chỗ, mặc tiếng kêu gào thăm khốc
của thân nhân. Làm sao tôi quên được cái Tết
đó, cái Tết mà tôi vừa “đăng quan” thiếu úy
sữa, tưởng rằng “áo gấm về làng vinh quy bái
tồ” th́ mùng hai mùng ba Tết lại đi “gát ḥm” cho
vị Tiểu Đoàn Trưởng của ḿnh và một
vị Đại Đội Trưởng khác của
TĐ91BCD-LLĐB vừa ngă quỵ trên đường
phố Độc Lập Thị Xă Nha Trang đúng vào lúc
giao thừa Tết Mậu Thân, đơn vị mà tôi
mới vừa đáo nhậm chưa tới mười
ngày! Tiểu Đoàn 91 Biệt Cách Nhẩy Dù
thuộc LLĐB Việt
Liên tiếp
những cái Tết sau đó, Kỹ Dậu (69), Canh Tuất
(70), Tân Hợi (71), Nhâm Tư (72), giày saut ṃn gót, áo trận
bạc màu, rong rủi miệt mài quân hành tận cùng
rừng sâu núi thẩm, chẳng có dưa hành thịt
mỡ, chẳng có bánh chưng bánh dày mà chỉ có gạo
sấy thịt hộp ba lác rau đay mọc dọc bờ
suối hay ven sông dưới chân đồi. Cũng
chẳng có rượu “nếp thang” hay rượu
“đậu nành” của quê tôi (G̣ Công Mỹ Tho), mà chỉ có
nước hố bom chứa sẵn trong bidong của lính,
cũng chẳng nghe tiếng pháo đón giao thừa mà
chỉ nghe tiết rít của hỏa tiễn 122,
đại pháo 130 và đạn AK47 veo véo qua đầu, thân
c̣n lơm bơm dưới giao thông hào hay hố cá nhân ngập
nước.
Chiến tranh mà!
Chiến tranh sát
hại sinh linh, chiến tranh tàn phá vạn vật th́
huống hồ chi tuổi trẻ của tôi. Chiến tranh
cũng không cần biết Xuân Hạ Thu Đông, tết nhất
sinh nhật giỗ quải ǵ hết, cũng không phân
biệt già trẻ bé lớn ǵ hết, chỉ biết có
chém giết lẫn nhau để đoạt chiến
thắng với bất cứ giá nào, dù cái giá phải
trả bằng hằng vạn vạn mạng sống
của người dân vô tội.
Tết
Quư Sửu Năm 1973.
...”Hiệp
định Paris về Việt Nam hoặc hiệp
định Paris 1973
(ở miền Nam c̣n gọi là Hiệp
định Ba Lê) là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại ḥa
b́nh ở Việt Nam do 4 bên tham chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Dân
chủ Cộng ḥa, Cộng ḥa miền Nam Việt Nam và Việt Nam
Cộng ḥa kư kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973. Về mặt công
khai th́ đàm phán có 4 bên và nội dung chính thức của
bản Hiệp định cơ bản dựa trên Tuyên
bố 10 điểm ngày 08-05-1969 của phái đoàn Cộng ḥa
Miền Nam Việt Nam, nhưng việc đàm phán
để đạt được nội dung hiệp
định lại chủ yếu được quyết
định bởi các phiên họp kín giữa 2 đoàn Việt Nam Dân chủ
Cộng ḥa và Hoa Kỳ...”
(Trích Từ Báo Chính Luận Sài G̣n
Phát Hành Ngày 29 Tháng 1 Năm 1973)
Ngày thứ bảy
27 tháng 1 năm 1973, ngày lịch sử bốn bên tham
chiến cùng kư kết ngưng bắn, tái lập ḥa b́nh cho
cả hai miền Nam-Bắc Việt Nam sau hơn hai
mươi năm chiến cuộc tương tàn huynh
đệ cùng một bọc Âu Cơ. Ngày lịch sử này
nhằm ngày 24 tháng chạp năm Nhâm Tư. Tết Quư Sữu! Đêm hôm trước là ngày đưa ông táo
về trời, chẳng nhớ là ngày hôm nay phải có thèo
lèo cứt chuột trà cúc, mà trong đầu cứ phải
nhớ những tọa độ để xin phản
pháo. Sáng ngày 28/1/ 1973, tôi đứng trên một
ngọn đồi thấp bên bờ nam sông Thạch Hăn
Quảng Trị, dùng ống nḥm quan sát bên kia
bờ bắc. Thường th́ “chúng” (Quân CS Bắc
Việt) lặn sâu lặn kỹ không thấy một bóng
dáng nào di chuyển trên mặt đất, tăng pháo th́
được ngụy trang bằng lưới chụp,
cày kết cành lá um tùm như một bụi cây di
động để tránh cặp mắt cú vọ của
OV10 thường trực từ ở đâu đó trên
đầu cao xa của chúng. Hôm nay th́ hoàn toàn khác, lệnh
ngưng bắn toàn phần đă được ban hành lúc
O giờ đêm hôm qua (27/1/1973), theo lệnh, cả hai bên
không được động binh hay di chuyển quân, không
được vô cớ nỗ súng khi chạm mặt
địch quân dù đang ở trong thế “cài răng
lược”. Xuyên qua làn sương không dầy không mơng trôi
lăng đăng trên sông Thạch Hăn, tôi thấy bọn chúng
đang h́ hục khiên súng ống đạn dược
xuống bờ sông, chất lên xuồng và có vẽ như
đang chờ đợi vượt sông.
Chỉ huy
đơn vị này hơn năm (5) năm, ĐĐ2TSND,
đơn vị mà Đại
Tá Trần Quốc Lịch gọi cho một cái tên mỹ
miều là “đầu trâu mặt ngựa”, v́ hầu
hết các ông “thần bán trời không mời thiên lôi” quy
tụ về đây...để quậy. Đánh giặc
như đùa như giởn, nhưng trong thành phố th́ hay
kiếm chuyện ăn quỵt phá quán là
chuyện cơm bữa. Nhiều trường hợp vi
phạm kỹ luật nặng nề, Trung Đội
Trưởng không giải quyết nổi, giải giao lên
cho tôi, các ông thần này tỏ ra khúm núm, khoanh tay, găi
đầu găi tai ca sáu câu vọng cổ rất ư là
tỏ vẽ đă ăn năn hối căi, tội
nghiệp quá, tôi chỉ phạt nhẹ rồi tha. Chỉ
vài ba ngày sau th́ chính mấy ông cố nội này lại làm
chuyện khác c̣n động trời hơn lần
trước, nhất quá tam, tôi gom lại cho đủ
“lục lâm thảo khấu” lập một tóan xâm nhập
đặc biệt thả vào hậu tuyến của
địch, tên nào ṃ về được th́ về, không
th́ đi luôn, đi đâu không ai biết. Từ
đó tôi sinh ra nghi ngờ đủ thứ v́ “bị
gạt” nhiều lần suưt bị treo áo lột lon v́
cả tin thuộc cấp.
Trong trường
hợp có Lệnh Ngưng Bắn, trong đó có lệnh
cấm cả đôi bên “động binh” mà chính mắt tôi
đă nh́n thấy chúng chuẩn bị vượt sông th́ không
c̣n ǵ nghi ngờ nữa. Do dự là một yếu tử
của binh pháp đối với kế sách tiên hạ
thủ vi cường, tôi gọi ngay
Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn I Nhẩy Dù xin cung ứng
khẩn cấp 20 cuộn kẽm gai (concertina) và 100 hỏa
tiễn M72. Thời gian này, ĐĐ2 TSND đang tăng
phái hành quân cho LĐIND, ba trung đội tiền
phương của TS2 bố trí cách bờ sông Thạch Hăn
khoảng 50 mét, bên phải kéo dài lên tới Cầu Thạch
Hản là một TĐ BĐQ từ vùng IV tăng
cường, phía sau lưng là TĐ1ND dưới quyền
Trung Tá Lê Hồng. Nếu địch cố t́nh vi phạm
“lấn đất dành dân” không nỗ súng, th́ khoảng cách
chỉ có 50 mét, cũng đủ cho chúng tiến sát,
mặt đối mặt với chúng tôi sau khi chúng đă
sang sông. Tuyến của TS2ND bị “thủng”
th́ BCH LĐIND bị đe dọa ngay.
Đêm
hôm đó, nữa đêm 28/1/ 1973, những ǵ tôi nghi ngờ
đă xăy ra. Bắc Quân đă sang sông không một tiếng động, để sáng ngày hôm sau,
29/1/1973...”bốn mắt nh́n nhau trào máu
họng”!!! Ta với địch, địch với ta
chỉ cách nhau có...10 mét! Ai Làm ǵ ai, chẳng ai
làm ǵ nhau, chỉ nh́n nhau cười ruồi. Tôi cảm thấy hụt hẩng v́ thua trí chúng nó
và cũng v́ tuyệt đối thi hành lệnh cấp trên
mà bị bọn ma giáo này chơi một vố “kèo trên”.
Buổi trưa, concertina được ĐĐ2 Công Binh
ND mang tới, quân ta căng kẽm gai phân ranh giới, quân
địch “phụ” kéo kẽm gai với sự hoan hỷ
đồng t́nh, những giọng nói rặc bắc kỳ,
trung kỳ, nam kỳ rộn ră trộn lẫn vào nhau ́ xèo ỏm
tỏi trong niềm vui mừng là từ nay cả hai
chúng ta không c̣n có kẽ thù của nhau nữa.
Ḥa B́nh Mà! Ḥa B́nh th́
phải sống chung với nhau chứ, thôi, chân không c̣n
đạp ḿn nữa, đầu không c̣n đội pháo
nữa, không c̣n thân lấy thân đở đạn cho nhau
khi xáp lá cà, không c̣n cơm gạo sấy với nước
hố bom nữa mà rau cải gà vịt tươi được tiếp tế
hằng ngày. Cớm trung cộng trao đổi gạo
sấy thịt hộp, thuốc lào trao đổi ruby quân
tiếp vụ, trà lạng sơn trao đổi cà phê gói
ration C, anh anh tôi tôi trong niềm vui tưởng như
chiến tranh đă lùi vào quá khứ xa xôi nào đó, và
tưởng như cả hai bên đă quên đi mới
chỉ vài ngày trước đó ŕnh rập lẫn nhau
để hạ thủ vô t́nh như loài thú khát máu.
Tôi
đứng đó, chứng kiến và quan sát hiện
trạng đó, nhưng tận trong tâm trí vui buồn,
mừng lo lẫn lộn. Vui v́ thấy dưới ḥa nhưng
chắc ǵ trên thuận, trên ở đây là bọn ma
đầu tráo trở lường gạt Chính Trị
Bộ Hà Nội vẫn c̣n ôm mộng xâm lăng
chiếm cho bằng được một phần
đất nước giàu có mầu mở của miền
Hai ngày sau, tôi ra
lệnh cho Trung Đội chỉ huy, dọn đất
bằng phẳng để làm một sân bóng chuyền, làm
xong, cho binh lính ngơ lời mời phía bên kia
qua bên này giao đấu Bắc-Nam cho vui. Khai trương
sân bóng chuyền, lính ta “đóng kịch” với những
trận đấu hào hứng la hét cổ vơ của mấy
ông chầu ŕa đứng ngoài sân, sau đó gà nướng,
sà lách trộn dầu dấm bày biện ra sân, khiến “bên
kia” chỉ biết đứng nh́n mà “nuốt nước
miếng”!
Ngày 1/2/1973, sau
năm ngày Hiệp Định Paris về chiến tranh VN
được phổ biến trên toàn thế giới, phái
đoàn Liên Hiệp Quân Sự Bốn Bên h́nh thành, Ủy Ban
Kiểm Soát Đ́nh Chiến cũng lần lượt
đến VN và trú ngụ ở khách sạn Hương
Giang (Huế), chúng tôi, bên ta bên địch sống kề
cận nhau, tay bắt tay, trao đổi nhau thân mật
những chuyện bá vơ, rồi cuối cùng bên kia
đồng ư gửi những “cao thủ” bóng chuyền sang
đấu giao hữu với phe ta. Như vậy nhịp
cầu Ô Thước đă được bắt qua hàng
rào kẽm gai concertina! Mỗi lần thi
đấu xong, không cần biết thắng bại, phe ta
khoản đải phe địch một nồi cháo
vịt c̣n nóng hổi rất ư là “đồng chí”.
Các ông quan to mặt bự của UB LH QS 4 Bên, các vị
lớn có chức của UB KS Đ́nh Chiến đang ở
đâu, hăy đến đây mà chụp ảnh quay phim,
rồi trở về căn pḥng có máy lạnh mà múa bút...khoe
khoang viết phét.
Cuộc vui của
nền “ngoại giao bóng chuyền” giữa ĐĐ2TSND và
ĐĐ Trinh Sát Đặc Công của SĐ 325CSBV sau
ngưng bắn chỉ kéo dài được năm (5) ngày,
một biến cố dở cười dở mếu
bất ngờ xăy đến xuưt chút nữa tôi bị truy
tố ra ṭa án quân sự v́ tội bất tuân thượng
lệnh.
Ngày 3 tháng 2 năm
1973 nhầm ngày 30 Tết Quư Sữu và cũng đúng là ngày
sinh nhật 28 tuổi của tôi. Vài ngày trước, tôi
đă căn dặn Thượng Sĩ Nhất Tá, HSQ
tiền trạm ở Huế t́m nơi đặt cho tôi hai
con heo quay cỡ lớn nhất, hậu cứ Sài G̣n
đả gửi ra hành quân 10 con vịt quay khô, cùng với
những món phụ như bánh ḿ, bánh hỏi rau sống
để lần đầu tiên đơn vị ăn
Tết trong “ḥa b́nh” vai kề vai bên cạnh kẻ thù không
đội trời chung mà không có tiếng súng. Trưa nay,
trận đấu bóng chuyền giao hữu đôi bên
chấm dứt, một buổi tiệc tất niên linh
đ́nh được bày ra sân, ta với địch,
địch với ta ôm eo ếch nhẩy sol đố ḿ
cùng với hai can rượu đế Cầu Bạch
Hổ. Tan tiệc dă chiến, ai về nhà nấy với
lời chúc tết của tôi và nhớ là ngưng giao
đấu trong hai ngày Tết, v́ bắt đầu ngày mai
mùng một tết, các trung đội sẽ lần
lượt thay phiên nhau về Sài G̣n đi phép thăm gia
đ́nh 10 ngày.
Ngày mùng một
Tết Quư Sửu
(4/2/1973) trôi qua trong cái lạnh giá buốt của
vùng địa đầu giới tuyến, Tết này con
không về được để ngắm những cây
mai vàng mà Ba đă trồng trước ngơ, không ăn được
món gị thủ mà Mẹ đă “bó” bằng những sợi dây
lạc dừa, con chỉ ngồi đây mở radio ấp
chiến lược nghe Hoàng Oanh:
“Xuân vừa về
trên băi cỏ non
Gió xuân đưa lá
vàng xuôi nguồn
Hoa cùng cười tia nắng vàng son
Lũ ong lên
đường cánh tung tṛn
Hoa chẳng yêu lũ bướm tả tơi
Muốn yêu anh vác cày
trên đồi
Hay là yêu chiến
sĩ ngàn khơi...”
Người
chiến sĩ ngàn khơi đón tết với đôi
mắt vẫn hướng về phía bên kia
bờ bắc trong lo âu hồi hộp canh chừng biến
cố “phản thùng” như Tết Mậu Thân.
Khoảng gần
nữa đêm, Sơn Nhung, người Hạ Sĩ
Nhất gốc khờ me trung tín của tôi nói: “Thưa Đại Úy, Trung
Sĩ Nhất Triết muốn xin gặp Đại Úy”.
Lê Văn Triết tốt nghiệp trường Hạ
Sĩ Quan Đồng Đế cuối năm 71, dân
bắc kỳ di cư chính cống, sau một năm
chết sống với toán 3 viễn thám, được
thăng cấp trung sĩ nhất và làm toán phó cho Thiếu
Úy Đoàn Kiên Em.
- Có chuyện ǵ quan
trọng không mà anh muốn gặp tôi giờ này
?
- Thưa
Đại Úy, thật t́nh đối đế lắm, tôi
mới xin gặp Đại Úy để giải quyết
dùm cho tôi việc khó xử này.
- Anh cứ nói
đi.
Gia
đ́nh bố mẹ của Triết là dân di cư năm
54, lúc Triết khoảng độ một hai tuổi. Gia
đ́nh người chú ruột của Triết c̣n ở
lại miền bắc dưới chế độ CS
với bốn (4) người con. Trong số này có hai
người con trai (Em chú bác ruột với Triết)
bị xung phong vào bộ đội năm 1972 tên là Châu và
Phong. Một phục vụ ở ĐĐ
Đặc Công của SĐ 325 và một ở trung
đội pḥng không của Trung đoàn 95 cũng trực
thuộc SĐ 325. Định mệnh run rủi
trớ trêu, ba anh em họ gặp lại nhau qua những
trận đấu bóng chuyền ngoại giao do tôi tổ
chức, sau trận đấu trưa 30 Tết...hai người họ ở lại với
Triết và nhất định không trở về bên kia dù
có bị xữ bắn tại chỗ hay bất cứ h́nh
phạt nào của cả hai bên dành cho họ. Triết
hỏi họ th́ họ chỉ trả lời
:
- Trước khi
vào
Nh́n vào ánh mắt lo
âu bối rối của Triết, tôi thấy phảng
phất một nét van lơn cầu khẩn nào đó.
Triết c̣n nghĩ đến t́nh anh em ruột thịt
đă cùng nhau trải qua một đoạn đường
ấu thơ trong thời kỳ cải cách ruộng
đất máu thấm đẫm ruộng vườn
của cha ông để lại, Triết như mong
đợi ở tôi một ân huệ mà
tôi khó ḷng xoay sở giải quyết để giúp cho
Triết được. Tôi ngồi trầm
ngâm như một pho tượng đá không một lời
nào với Triết. Sau ngưng bắn, lệnh
cấp trên là không được nhận hồi chánh viên,
đầu thú, hay trong trường hợp chạm súng
bất đắc dĩ bắt được tù binh, ngay
chính cả hàng binh th́ phải “giải giao tại chổ”,
có nghĩa là không báo cáo, không giải giao. Trong
trường hợp của Triết tôi phải làm sao
đây. Giải giao tại chỗ có
nghĩa là bắn bỏ tại chỗ, vùi thây tại
chỗ xem như mất tích. Tôi không thể và không
thể làm như thế v́ con người có đánh mất
lương tri như thế nào đi chăng nữa
cũng c̣n lại một chút gọi là “nhất điểm
lương tri”. Chính cái nhất điểm
này sẽ đeo đuổi cào xé dày ṿ lương tâm
của ḿnh suốt cuộc đời c̣n lại.
- Thôi Cậu về
ngũ đi...sáng mai dẫn hai
người đó lên đây gặp tôi.
* *
*
Trong căn bạt hành quân dă
chiến 6ftx12ft được ngụy trang hoa lá cành và
nằm dưới mặt đất khoảng một mét,
Châu và Phong ngồi khúm núm dưới đất bên cạnh
Triết, đầu cuối gầm, thỉnh thoảng
ngước nh́n lên với đôi mắt thất thần,
mặt xanh xao v́ thiếu ăn bồi dưỡng lâu ngày,
tôi ngồi bên mép cái chỏng tre gọi Sơn Nhung “anh pha
cho tôi bốn ly cà phê sữa nóng cứt chồn...”
rồi quay sang nói với Châu và Phong
- Tối qua,
Triết đă kể hết sự t́nh của hai cậu
cho tôi rồi. Hai cậu nhất định ở lại
với Triết, không trở về đơn vị
của ḿnh bên kia nữa dù có phải
chết cũng không về. Thế bây giờ tôi không
chấp nhận và dùng vũ lực để đẩy
hai cậu qua hàng rào kẽm gai, nếu hai cậu kháng cự
hoặc chạy trở qua bên này, tôi ra lệnh bắn hai
cậu ngay tại chỗ, th́ hai cậu nghĩ sao!?
Phong từ tốn
trả lời:
- Thưa
Đại Úy, tụi em cũng biết nếu trở
về th́ sớm muộn ǵ cũng chết với chúng nó,
v́ em nghe lóm được chúng nó kháo nhau rằng chẳng
c̣n bao lâu nữa ḿnh cũng sẽ tới Sài G̣n. Tụi em
nghĩ thà chết ở đây có mặt của anh
Triết, ít ra tụi em cũng có được một
nấm mộ và một cái bia, để
mai kia bố mẹ tụi em biết được
tụi em đang ở đâu. C̣n nếu
Đại Úy tha cho th́ tụi em được sống
với anh Triết trong t́nh thương yêu đùm bọc có
nhau mà xây dựng lại cuộc đời mới.
Trước khi
gặp Châu Phong tôi đă có quyết định rồi
nhưng c̣n do dự không nói ra, bây giờ tôi không quan tâm
tới những lời chân thật cầu khẩn của
Phong mà chỉ hơi giật ḿnh v́ câu nói”chúng nó kháo nhau
rằng chẳng c̣n bao lâu nữa ḿnh cũng sẽ tới
Sài G̣n”. Như vậy là quá rơ ràng ư đồ của Hà
Nội qua Hiệp Định
- Thôi các cậu
trở về vị trí đóng quân đi, trong thời gian
chờ đợi lệnh cấp trên, tôi giao trách nhiệm
cho Triết, Chuẩn Úy Em và cả toán 3 Viễn Thám, ngay bây
giờ tôi không thể quyết định được
ǵ cả, ngày nào hay ngày nấy, nếu có chuyện ǵ
bất trắc xảy ra th́ chính các cậu sẽ nhận
lănh hậu quả trước tiên. Có vậy
thôi.
Tôi gọi ngay BCH
LĐIND đang trú đóng ven quốc lộ 1 phía đông La
Vang khỏang vài ba cây số và xin tŕnh diện Đại Tá
Lữ Đoàn Trưởng Lê Văn Ngọc (Ngọc
Kiến) ngay ngày hôm nay và cũng xin có sự hiện
diện của Trung Tá Nguyễn Văn Be đang kiêm
Trưởng Pḥng 2 SĐND. Lời yêu cầu
được chấp thuận ngay. Lúc 5 giờ
chiều ngày mùng 2 Tết Quư Sửu (4/2/1973), một
chiếc M113 chở tôi đến BCH LĐ1ND khi nhị
vị này đă có mặt sẵn. Tôi chỉ tŕnh vắn
tắt gọn gàng câu chuyện “hồi chánh” của Châu và
Phong cùng sự liên hệ ruột thịt với Trung Sĩ
Nhất Triết TS2ND, đồng thời cũng bày tỏ
nỗi khó xử của tôi giữa t́nh và lư trong nghịch
cảnh này.
Trung Tá Be lên
tiếng trước :
- Cái vụ này
cả tôi và Đại Tá Ngọc (LĐT LĐ1ND) cũng
không dám quyết định ǵ lúc này được.
Trước đây th́ dễ ợt rồi, không có ǵ
phải bàn cải tŕnh lên tŕnh xuống mất công, chỉ
làm biên bản giải giao qua Bộ Chiêu Hồi là phủi tay. Đại Tá nghĩ sao?
Trầm ngâm suy
nghĩ một lát, ĐT Ngọc LĐT LĐ1ND chậm
rải trả lời :
- Chà...cái vụ
này hơi rắc rối à nha. Xử theo
t́nh th́ Đại Úy Út lănh cán búa, xử theo lư th́...th́...
thất nhân tâm quá. Thôi hay là anh Be thử
gọi hỏi Lê Lợi (Tướng Lê Quang Lưỡng TL
SĐND) và xin quyết định xem sao.
Trung Tá Be rời
ghế ngồi, bước vào căn hầm kế
cận, nơi đặt máy Siêu Tần Số có “hot line”
để liên lạc riêng với Tư Lệnh. Năm phút
sau Ông trở ra chỉ với một câu nói ngắn gọn
“Chẳng lôi thôi ǵ cả, giải giao tại chỗ!”.
Như thế là xong
“chẳng có lôi thôi ǵ cả”, lệnh là lệnh, cái lệnh
dù có có thất nhân tâm mấy chăng nữa cũng là “cái
quân lệnh”.
Bài toán nan giải giữa lư và t́nh của tôi đă
được Tướng Tư Lệnh cho đáp số
th́ chẳng c̣n ǵ để phân giải nữa. Ngồi trên tháp chiếc thiết vận xa M113
trở về vị trí đóng quân, tâm hồn lăng
đảng mênh mông không biết phải giải quyết ra
sao khi mà những đôi mắt van lơn khẩn cầu
của ba anh em Triết Châu Phong như đang chập
chờn lăng văng trên cành cây ngọn cơ ven đường
về. Trải qua bao nhiêu chiến trận, tôi đă
từng lấy mạng sống của ḿnh trêu đùa
với định mệnh, cái sống cái chết như
nhau trong những lúc dầu sôi lữa bỏng, giờ
đây trước hai kẽ thù đang khép nép quay
đầu về với ḿnh với sự sợ hải
tuân phục, mà chính ḿnh quyết định cái chết cái
sống của họ, th́ quả là trớ trêu thật, là
bởi tôi không phải là định mệnh để quyết
định số phận của họ trong hoàn cảnh
này. Đêm mùng 2 Tết, tôi ngồi một ḿnh bên chai Remy
Martell với cái đùi vịt quay nặc nồng mùi
dầu ẩm mốc của ba tàu chợ lớn, trong
căn cḥi dă chiến chỉ cách Bắc quân khoảng 50 mét.
Trước khi đi ngủ, tôi đă tự
quyết định “chẳng làm ǵ cả”. Lại một lần nữa tôi đang “trêu
đùa với định mệnh!!!”
Tôi cứ làm thinh,
làm ngơ coi như chẳng có ǵ xăy ra cả, nhưng
tự trong đáy ḷng một nỗi ngỗn ngang không
biết xử trí như thế nào cho hợp lư hợp t́nh
với hai “ông cố nội” báo cô này. May mắn thay, trưa
ngày 6/2/1973 nhằm ngày mùng 4 Tết, ĐĐ2TS
được lệnh di chuyển về phía nam Sông Bồ
(An Lỗ Huế), một Tiểu Đoàn BĐQ sẽ trám
tuyến cho ĐĐ2TSD nội trong ngày. Nhá nhem chiều hôm
đó bầu đoàn thê tử của tôi phải lội
bộ hơn ba (3) cây số ra quốc lộ 1 để
GMC chở về An Lỗ... dĩ nhiên
phải cơng theo hai ông báo cô Việt cộng chính cống này.
Cá tính của tôi là khi suy tính một chuyện ǵ mà chưa
t́m ra một giải pháp để thực thi th́ trong
dạ cứ cồn cào khó chịu, nhưng lại cứ
nhởn nha cù cưa không dứt khoát liền, nhưng khi có
giải kết rồi th́ có ...trời cản!
ĐĐ2TS
được “nhét” vào pḥng tuyến giữa TĐ3ND và
TĐ9ND dọc từ trên núi xuống tận cầu An
Lỗ, phía nam Sông Bồ, bờ sông phía bắc là Trung
Đoàn 95 của SĐ 325 chiếm giữ, chỉ cách
Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của SĐND
hơn một kí lô mét về hướng tây nam. Cả hai
bạn địch cùng tắm giặt nấu ăn cùng một gióng sông oan nghiệt chia cách
đôi bờ! Sau hai ngày phối trí quân tạm ổn
định, tôi gọi Trung Sĩ Nhất Triết tŕnh
diện:
- Tôi thông cảm tâm
trạng khó xử của cậu, tôi tạm thời
giải quyết như thế này. Tôi biết gia đ́nh và
cha mẹ của cậu đang sống trong giáo sứ Khiết
Tâm Thủ Đức, một giáo sứ 100% người di
cư 54, cha của cậu hiện là thầy bốn
thầy năm ǵ đó của giáo sứ, có nhiều uy tín
với Linh Mục chánh sứ tại đây...có phải
đúng như vậy không?
- Dạ đúng
như vậy thưa Đại Úy.
- Vậy th́ như
thế này. Tôi cho cậu đi phép hai (2)
tuần, ứng trước cho cậu hai tháng lương,
tôi cũng cấp giấy phép (giả) cho Châu và Phong cùng
đi với cậu. Cậu có nhiệm vụ
đưa hai đứa nó về giao cho Cha cậu, và năn nỉ lạy lục cha cậu
liệu bề cưu mang tụi nó. Tôi nghĩ với uy tín
và “công quả” đối với giáo xứ của cha
cậu, cha cậu có thể giải quyết
được chuyện này, và lại nữa với t́nh
ruột thịt chú bác như cha, ông có thể hết ḷng lo
cho tụi nó. Lo như thế nào tôi không biết, nhưng
tôi chắc chắn rằng ông sẽ lo được. Khi
về đến nhà, cậu phải xé bỏ và đốt
ngay hai cái giấy phép “giả” này, và nhớ một
điều tối quan trọng là: căn dặn gia đ́nh
nói rằng hai tụi nó là lao công đào
binh của SĐ3BB với hai cái tên mới. Chỉ có
vậy thôi, cậu đă hiểu và thông suốt những ǵ
tôi căn dặn chưa? Tôi tin ở cậu chuyện này,
nhớ rằng nếu có chuyện tráo trở nào sau này, tôi
sẽ là người chịu trách nhiệm trực tiếp
đó.
Triết
như ngẫn người, có lẽ Triết không bao
giờ nghĩ tôi lại đi đến quyết
định này, một quyết định khá táo bạo
gần như “trêu đùa với định mệnh”. Triết
lí nhí cám ơn và về nơi đóng quân của toán.
Hai ngày sau họ
đă ở Thủ Đức, và ba tháng sau Triết báo cho
tôi biết, Châu Phong đă trở thành dân quân Xă Khiết Tâm
thuộc Quận Thủ Đức với giá 100 ngàn cho mỗi
người. (Tiền VNCH 1973)
Trong mỗi một
con người đều có một cây thước
để đo chính lương tâm của ḿnh, dài hay
ngắn, căng hay chùng là tùy vào mức
độ lượng khoan dung tha thứ của mỗi
người. Khoan dung tha thứ không thay đổi
được hận thù địch bạn trong quá khứ,
nhưng nó lại mở rộng cho tương lai. Tôi
đă không thi hành nghiêm khắc quân lệnh “giải giao
tại chỗ” mà c̣n âm thầm lén lút giúp cho hai cán binh CS
một con đường sống, một lối sống.
Chẳng có ǵ để tôi phải thù hận họ
đến nỗi phải mang họ ra tống tiễn
họ bằng một phát đạn vô t́nh vào màng tang
của họ, nếu có thù hận chăng là thù hận Cáo
Hồ đă tha cái học thuyết khốn nạn
ngoại lai về dày xéo đất tổ khiến cả
một dân tộc phải học máu non gần một
thế kỷ với sự trợ giúp của một
lũ tham cuồng vọng vô học Giáp Đồng Chinh
Duẫn...Trái tim của tôi dành cho những kẽ thù đă
sa cơ thất thế muốn t́m một con
đường sống lương thiện là một
vực sâu muôn trượng, mà ở dưới đó,
người ta sẽ luôn t́m thấy sự tha thứ. Chẳng những tôi tha cho họ (Châu Phong) mà c̣n
giúp cho họ làm lại cuộc đời vốn dĩ
đă ngược đăi họ trong suốt quảng
đời tuổi trẻ cũa họ dưới chế
độ dă man cùng cực của cộng sản. Trái
tim của tôi bảo tôi phải làm
như vậy dù lư trí tôi phân vân đắn đo gần
như dằn xéo nhiều lần rách bươm cả tâm
can.
Cuối tháng 10 năm 1973, tôi
được lệnh tŕnh diện Pḥng An
Ninh Quân Đội Bộ TL SĐND để làm phúc tŕnh
về vụ việc này v́ tin tức đă thấu
đến tai của an ninh quân đội. Trong
cuối bản phúc tŕnh tôi có viết “hận thù như
một viên đá đè nặng trong ḷng tôi, tôi đă vứt
bỏ nó đi kể từ khi có lệnh ngưng bắn
chẳng phải dễ chịu hơn không.
Tại sao tôi cứ phải để một viên đá vô
h́nh đè nén trái tim tôi trong những trường hợp
phải tha hay phải giết...”. Sau lần đó, tôi không thấy Pḥng ANQĐ và
Pḥng Nh́ của SĐND đá động ǵ tới nữa.
Thuở nhỏ, Ông
Ngoại tôi cứ căn dặn rằng ai cho con một
chén cơm con phải nhớ suốt đời, con cho ai
một chén cơm con phải quên suốt đời. Tôi
đă vi phạm quân lệnh tha cho Châu
Phong tôi đă quên, nhưng Châu Phong không quên. Tết Bính Th́nh
năm 1976, đang bị giam giữ ở trại tập
trung Hốc Môn, tôi nhận được một thùng quà
tết 3 kư lô, người gửi là Lê Thanh Triết Thủ
Đức gồm một tấm chăn dầy, một kư
thịt ḅ khô xào mắm ruốt xă ớt, bàn chải kem
đáng răng, sà bông cô ba, trộn lẫn trong ruốt là
hai tờ giấy 50 chục đồng cụ hồ và
một gịng chữ ngắn ngũi của Châu Phong “tụi
em cố gằng sẽ lo cho anh “đi” càng sớm càng
tốt”. Đi đâu, đi được
hay không tôi không màng tới, chỉ thở khà một
tiếng “à ra nhân quả là đây”. Bốn tháng sau,
tháng 5 năm 1976 tôi trốn trại (vượt ngục)
từ trại cải tạo Long Giao, nơi ghé đầu
tiên để tôi nhờ nhắn tin với gia đ́nh là Xă
Khiết Tâm, nơi mà dân giáo xứ di cư chống
cộng tận xương tủy, nơi mà Ông Lâm, cha
của Triết cũng là chú ruột của Châu Phong có uy
tín rất nặng kư với linh mục chánh xứ. Hai anh em
Châu Phong có giấy tờ hợp lệ sau “giải phóng”
họ đi làm phụ hồ cho những nhà thầu xây cất
nhà cữa, riêng Triết đă có vợ và hai con, vợ
chồng cùng đi làm chung ở một hăng dệt Thủ
Đức.
Cuộc
sống b́nh thản của họ cứ thế mà trôi
dần với thời gian, giờ đă hơn 40 năm
rồi c̣n ǵ. Tết năm nay, Tết Kỷ Hợi 2019,
như thường lệ mọi năm, họ đều
gửi thư thăm hỏi và không quên nhắc lại câu
nói mà tôi đă từng nói với họ “tha thứ cho
kẽ làm bạn tổn thương là món quà dành cho
họ”. Và món quà Tết hằng năm họ gửi
lại cho tôi là ba hũ mắm tôm chà G̣ Công, loại mắm
mà tôi mê thích nhất, ba con thỏ nhà phơi khô ướp
xả ớt được bọc gói cẩn thận
dấu trong các vali hành lư của người thân về VN
thăm gia đ́nh họ. Cuộc sống là
tiếng vọng của luật nhân quả. Những
điều tôi gửi đi nay quay trở về, những
ǵ tôi đă gieo trồng nay tôi đang gặt hái, những
điều tôi đă cho nay tôi đang nhận lại, tôi
đang nhận lại những trái tim, những tâm hồn
không thù hận của những người bên kia chiến
tuyến đă một thời bắn giết nhau trong quá
khứ, nhưng nay một tương lai đang rộng
mở cho họ.
Năm cũ
sắp hết, năm mới sắp đến, những
cành đào sau nhà đă trổ nụ, tôi chợt nhớ
đến quê tôi, quê G̣ Công nước mặn đồng
chua với những cánh đồng lúa chín ngút ngàn, những
vườn măng cầu serie chín đỏ mọng, khi
đông tàn xuân đến, hằng chục chiếc ghe
bầu khẩm nặng với dưa hấu, dừa xiêm
ghé bến sông nước đục ngầu chảy
xiết, chợ búa tất nập ngược xuôi
người mua kẽ bán, trong đó có Mẹ và Chị tôi,
buôn tảo bán tần nuôi năm chị em tôi ăn học,
và như c̣n nghe văng vẳng đâu đây tiếng
của Ông Ngoại tôi dặn ḍ Mẹ tôi:
“Nghèo Mà Biết Cho
Đi Là Giàu Hơn Tất Cả”
“Giàu Mà Không Muốn
Bỏ Ra Là Thiếu Tận Cùng”
Tôi
đă cho Châu và Phong “một cuộc sống mới”. Giờ
đây tôi được “một cuộc sống mới”.
Út
Bạch Lan